Sunday, March 30, 2008

Giải Khăn Sô Cho Huế Chương 6 đến Chương 9




Chương 6
Đi về trong lửa đạn

Chúng tôi chạy qua mấy cánh đồng bỏ không, ngập nước, qua vài khoảng đất trống cây cỏ mọc hoang vu thì dẫn tới một xóm nhỏ. Vài mái nhà thưa thớt ven đường. Thái mừng rỡ kêu lên:

“Có quân đội mình đóng đây rồi.”

Thấp thoáng sau đoàn người chạy loạn, tôi nhận ra bóng một vài quân nhân đang đeo súng đứng lấp ló trước một cổng rào. Thôi, thế là thoát nạn, chúng tôi đã đến vùng bình yên. Má tôi trong một cái quán chạy ra:

“Má đây nì, má đây nì.”

Thái kéo tôi vào hàng hiên của cái quán. Quán bỏ không, ở giữa quán một cái hầm cát to tướng, choán hết cả gian nhà. Bên cạnh chiếc quán là một cái nhà gạch bỏ không, lính Mỹ và lính Việt đang gác ở đó. Người lính Mỹ và hai anh lính Cộng Hòa đi soát giấy từng người. Tôi không nhớ là cái thẻ căn cước để ở đâu nữa, nhưng rồi cũng tìm ra.

Vợ Bé đặt gánh xuống, ngồi ôm đứa con nhỏ thở dốc:

“Thôi, sống rồi.”

Nhưng Thái và Bé vẫn có vẻ e dè lắm. Một toán người dừng lại ở quán, họ khiêng theo một người đàn bà bị thương, đạn phá tung cả nửa mảnh ngực, chỉ còn thoi thóp thở. Mấy anh lính chạy tới, rồi một người Mỹ khác chạy tới dỡ chiếc chăn đắp kín người đàn bà lắc đầu. Tuy nhiên người Mỹ cũng vội vã đi trở ra, nói cho xe chở. Mấy người lính Mỹ khác lắc đầu, đưa tay ra dấu tuyệt vọng. Chiếc xe bò chở hai người bị thương cũng đã tới nơi. Một người đã chết, một người ngắc ngoải. Người đàn bà vật mình vật mẩy khóc lóc. Bà ôm lấy xác chết, bà bò lê dưới đất:

“Ông ơi, con chết, cháu chết, tui còn mình ông, ông cũng bỏ tui ông đi.”

Người đàn bà cùng đẩy xe bò với người kia cũng khóc:

“Ông ơi, ông khoan chết, ông chết răng cho đành ông ơi.”

Bà ta mở chiếu, sờ tay vào đầu kẻ hấp hối, mở banh đôi mắt lờ đờ đã khép kín, cứng lại:

“Đừng ông ơi, ông đừng bỏ tui.”

Hai tiếng khóc, một của người tuyệt vọng, một của người còn bám lấy chút hy vọng mong manh bật lên, người này cố gào lớn hơn người kia. Cuối cùng, một trong hai người đàn bà chạy tới cầm tay một trong mấy người lính đứng coi cùng mấy người Mỹ, lạy lục:

“Lạy anh, anh mần ơn chở chồng tôi xuống dưới Phú Bài.”

“Không có xe. Xe mô mà chạy qua đồng dưới nó là họ bắn liền. Chịu.”

“Cứu giùm chồng tôi ông ơi. ”

Bà ta lại nắm tay một người Mỹ. Người Mỹ lắc đầu. Thái cũng lăng xăng:

“Hay có thuốc chi đem rịt vết thương cho họ may ra...”

Người lính người Việt, như đã quen với không khí này lâu lắm:

“Ôi, công cốc. Không kịp mô mà làm...”

“Thì kệ...”

“Mà mần chi có thuốc. Thuốc tiên lúc ni cũng chịu...”

Người đàn bà xô người Mỹ ra rồi chạy lại chiếc xe. Bà dở chiếc chiếu, rồi trợn mắt, nghiến răng và ngã vật xuống:

“Thôi rồi...”

Bà đập đầu xuống đất, bà đập tay xuống đất, bà ngẩng mặt lên trời:

“Trời cao, đất dày nì, chồng tui... trời cao đất dày nì...”

Bà lăn lộn, rồi bà lại chồm dậy:

“Thôi đi, thôi đi đi mụ Tứ. Mình lên thành phố lại.”

Người đàn bà nọ đang khóc lóc muốn ngất đi, nghe tiếng gọi, lau giòng nước mắt:

“Đi lên phố hỉ?”

“Đi lên trên nớ chết chung với nhà với cửa, với chồng với con luôn. Sống mần chi nữa trời.”

Mọi người đổ lại khuyên can. Nhưng không làm lay chuyển được lòng hai người đàn bà đã tuyệt vọng đến cùng cực. Họ nhìn về phía súng nổ, lửa cháy, chỉ tay la hét:

“Cháy hết. Cháy hết đi. Tui căm gan tím ruột rồi đây. Trời ơi là trời.”

“Đi đi. Họ không thương mình mô. Ai mà thương mình lúc ni, hả trời...”

Ông trời cũng đã động lòng, sụt sùi. Những hạt mưa bay lất phất, bầu trời lam chì đã chảy nước.

Hai người đàn bà vừa đẩy xe trở lại thành phố vừa khóc lóc. Họ không nhìn lui nhưng tiếng khóc của họ còn quyện mãi trong làn mưa, trong không khí căng tràn buồn thảm. Chiếc xe bò xa dần, hai bóng người ỳ ạch đẩy xe nhỏ dần trên đường dài, tiến mãi với vùng lửa đạn. Một người lính nói theo:

“Mấy mụ đó điên mất rồi.”

Không ai phê bình gì nữa. Hai người đàn ông khiêng cái cáng có người bị thương chợt hỏi một người lính:

“Trong làng có trạm cứu thương không?”

“Chở vô đi, có dân vệ trong nớ.”

Hai người đàn ông vội vã đứng dậy khiêng cáng đi. Một đứa nhỏ chạy lúp xúp theo. Một người đàn ông nói:

“Mai, đi cháu.”

Thằng nhỏ không trả lời, nó cắm cúi chạy. Một giọng đàn bà cất lên:

“Chắc con của người đàn bà đó.”

“Thằng nhỏ chưa biết gì hết, tội ghê.”

Thái họp cả gia đình lại bàn chuyện ăn ở. Vợ chồng Bé nói sẽ đi bộ xuống Phù Lương nhưng Thái ngăn lại. Trời chiều rồi, đi cũng không kịp nữa. Đoàn người dừng chân bên quán cũng đã tản mát vào trong xóm hết. Tôi hỏi Thái đây là đâu, Thái nói vô trong một chút nữa là thôn Thủy Dương Hạ. Vợ chồng Bé điều đình với chủ quán xin ở đậu một hôm. Người chủ quán nói:

“Ở đây thì nằm ngoài hè chớ hầm chật rồi.”

Bé sực nhớ có người quen. Thái nói:

“Em cũng có người quen, thôi mình chia ra làm hai để bớt phiền họ phần nào.”

Thái có ông cậu, ông anh của má nó. Vậy là má tôi, chú tôi, tôi với Thái tách ra để đến nhà cậu Giáo. Vừa thấy mặt chúng tôi, cậu Giáo đã chạy ào ra:

“Trời đất ơi, răng chạy được về dưới ni rồi. Nam mô A Di Đà Phật. Phước đức may mắn quá. Vô đây, vô đây đã chị...”

Má tôi bật khóc:

“Tưởng chết hết rồi chớ mô nữa anh ơi. Chuyến ni là hết rồi...”

“Ôi người còn là được. Chị vô đây, vô đây đã...”

Tôi hỏi:

“Cậu, dưới ni yên không?”

“Ôi, có chi mà không yên. Mấy bữa ni, họ về dưới ni biết cơ man mô mà noái cho hết. Họ chạy ngang đây rồi họ về Phù Lương hết. Về dưới Phù Lương, Phú Bài nghe yên lắm.”

Má tôi lại đổi ý:

“Hay mình về Phù Lương.”

Thái can:

“Không được, phải ở đây để dò tin tức của anh Lễ, mần răng cũng có người ở Từ Đàm về. Họ về tới là mình chận hỏi thăm liền. Bác để con.”

Chúng tôi vừa ngồi yên ở bộ phản thì bỗng có tiếng nổ ình long trời lở đất. Không ai bảo ai, má tôi, chú tôi, tôi và Thái cũng nhào xuống đất. Nhưng kìa, mọi người vẫn ngồi im. Cậu Giáo cười:

“Chi rứa. Trên đồi họ bắn đi đó mà.”

Tôi chợt hiểu, ngọn núi phía trong ở bên kia đường là nơi đặt đại bác bắn vào thành phố. Những quả đại bác bắn đi ở đây đã gây bao nhiêu chết chóc ở trong thành phố kia. Nhưng tôi cũng hiểu là không còn làm thế nào hơn được. Tôi leo lên phản gỗ ngồi mà vẫn chưa hết run. Một vài tiếng súng bắn lẻ tẻ trong xóm. Cậu Giáo nói dân vệ đi tuần họ bắn. Tôi hỏi ở đây Việt cộng có về tới nơi không, mợ Giáo nói:

“Đêm họ về hoài, mà kệ họ, mình ở trong nhà, đêm đừng mở cửa. Họ đi ngoài vườn kệ họ.”

“Họ có soát không?”

“Ở xóm dưới họ có về bắt, ở đây thì không. Đây gần đồn, có lính gác mà sợ chi.”

Nhưng cậu Giáo cẩn thận:

“Kể ra mình cũng phải để tâm chớ. Đêm tuyệt đối đừng có nói chuyện, cựa mình chi hết. Họ vô đó.”

Thái đề nghị đào thêm hầm. Tối hôm đó, mọi người lăng xăng sửa lại hầm. Nhà dựng được thêm một cái hầm nổi nữa. Trời chạng vạng là cậu Giáo bắt mọi người không được ra sân hay lấp ló ngoài cửa. Ngoài đường không còn một bóng người đi lại, kể cả lính Việt và Mỹ cũng rút vào những nơi an toàn. Tôi bỗng linh cảm như sắp có chuyện gì xảy ra. Giữa cảnh yên lặng như đang lắng lòng chờ đợi một chuyện gì đó.

Nhưng đêm đầu tiên ngủ ở Thủy Dương Hạ không có chuyện gì xảy ra hết. Sáng sớm hôm sau, ngủ dậy, tôi nghe tiếng chim hót. Tôi lần ra sân rửa mặt súc miệng, rồi cùng với người con dâu của cậu Giáo đi ra ngõ coi tình hình. Mọi sinh hoạt vẫn bình thường, trước cửa nhà, bên kia đường, nơi đình, chợ vẫn đông. Nhưng sự đông đúc có một vẻ gì khác thường. Lài kéo tôi sang phía chợ, nơi hàng bán cháo lòng, người đứng người ngồi, họ ăn uống xô bồ. Bên cạnh đoàn người đang ngồi đứng đó, còn những đống đồ cao ngất, những thúng gióng. Hình như họ mới tản cư về sáng nay. Tôi lại hỏi thăm. Nhưng ai cũng chỉ biết chuyện người đó. Nhiều người ở An Cựu, nhiều người ở tận dốc cầu Nam Giao, nhưng họ cũng chả cho tôi biết gì hơn ngoài những tin tức đã nhận được. Một người nói cho tôi biết là ở trên kia, còn nhiều người bị thương. Lài kéo tôi bảo lên coi. Cô nàng chưa bị chạy loạn, từ hôm Tết đến nay, ở Thủy Dương Hạ yên ổn quá, chả biết sợ là gì. Nhưng tôi thì khác, một tiếng súng, một tiếng động lạ cũng làm tôi giật mình. Má tôi đứng ở trong sân, thấy chúng tôi đi xa thì gọi lại bảo đừng có đi. Tôi nói vài câu cho má tôi an tâm. Câu mà má tôi bằng lòng nhất là khi tôi nói may ra ở trên đó có người ở Từ Đàm về.

Trời vẫn mưa bay, nếu không phải chạy loạn, những ngày đầu xuân mưa phùn thế này thật tuyệt diệu. Nhưng lúc này tôi không còn đủ sức để ngắm phong cảnh nữa. Những đoàn người từ Huế tản cư về vẫn là cảnh chính đập vào mắt tôi. Tôi nôn nao, gặp ai cũng hỏi thăm dù biết là những câu trả lời của họ giống nhau hết.

“Bác ở mô về đó?”

“Ở An Cựu.”

“Bến Ngự.”

“Ở cầu Nam Giao.”

“Trên đó ra răng rồi chị? rồi mệ? rồi bác? rồi anh?”

“Tan nát hết. Tan hết rồi.”

Câu nói chạy vút theo những bước chân. Đoàn người nào cũng vừa đi vừa chạy như sợ tiếng súng sẽ theo kịp. Lài kéo tay tôi:

“Thôi đi, hỏi ai cũng như nhau hết.”

Tôi đi theo Lài, nhưng hễ gặp là hỏi. Kẻ trả lời, kẻ không buồn mở miệng. Kệ, tôi như nhiễm một thói quen khó bỏ và dù những câu trả lời rất giống nhau mà mỗi lần nghe tôi vẫn còn bỡ ngỡ, lạ lùng như khám phá thêm một điều lạ nữa.

Chúng tôi đi qua một khoảng đất trống, cái quán nhỏ và khu đồn binh hiện ra. Ở đây thật là một cảnh hỗn độn, người ngồi người nằm la liệt bên đường, trong sân, trước quán. Mấy anh lính, mấy anh dân vệ lăng xăng soát giấy người này, hỏi thăm người nọ. Mấy người Mỹ đứng ngắm đoàn người rồi nhe răng cười vô duyên, chả hợp tình hợp cảnh chút nào. Những người bị thương được sắp một nơi và đã có mấy y tá trong vùng ra băng bó. Hỏi thăm mới biết là đoàn người này từ nhiều nơi đổ về. Họ cho biết cầu Tràng Tiền đã sập, cầu An Cựu cũng đã sập. Có người ở bên phố thoát được nhờ mạo hiểm đi đò. Mỗi chuyến đò chở một người sang sông phải trả trên năm ngàn đồng.

Nhờ hỏi thăm những người mới về sáng nay, mà tôi biết Huế đã đánh nhau khắp nơi, bên phía Quốc gia chưa chuyển quân mà mới bắn đại bác và thả bom. Máy bay liệng suốt ngày. Máy bay còn kêu gọi dân chúng cố dồn về phía hữu ngạn để thoát tay Việt cộng nữa. Tôi được biết là ở trường Đồng Khánh, Quốc Học và trường Kiểu Mẩu đã trở thành những nơi tạm cư cho đồng bào. Họ ở những nơi này cũng như đùa giỡn với tử thần vì những trái đại bác bất chừng hoặc bị kẹp giữa hai phe đánh nhau, ngày nào cũng có người chết. Tôi cố hỏi thăm tin tức vùng anh tôi ở, nhưng họ lắc đầu hoặc cố mò đoán trả lời thì cũng càng bi quan hơn, chả hạn như:

“Trên đó nát hết rồi, thành bình địa rồi.”

Có người còn nói y như mình đã chứng kiến tận mắt:

“Trên đó thì chỉ có Việt cộng chớ dân thì còn ai nữa. Nội đại bác bắn ngày đêm, mười mấy ngày nay cũng đủ chết rồi, đừng nói súng đạn, đừng nói chuyện họ đấu tố. Tui ở Bến Ngự mà thấy mùi hôi bốc xuống nì. Chó nó lên tha cả cánh tay, cả khúc chân còn đầy thịt, rùng rợn lắm.”

Một người còn thêm:

“Trên nớ chết không ai chôn, không còn cái nhà mô nguyên vẹn. Mấy hôm trước có người trốn về nói cho tui nghe rứa đó.”

Thôi, như vậy tôi còn hy vọng gì gia đình anh tôi còn sống nữa. Cả cô em gái mà khi ba tôi từ giã cõi đời, mắt vẫn dán chặt vào khuôn mặt nó như muốn gởi gắm những người ở lại. Mấy đứa cháu nhỏ nữa, mấy năm nay tôi mới về, bận việc tang chưa kịp bế kịp bồng.

Nước mắt tôi muốn trào ra, và lòng tôi không còn chút hy vọng nào nữa. Nhưng lúc đó, tôi lại nghe một giọng khác trả lời một người nào đó đang hỏi.

“Trên Từ Đàm hả? Cũng có người thoát chớ. Họ đi lên ngả Tây Thiên, trên đó yên lắm, nhưng khổ là ở đó lại đầy quân giải phóng. Bộ chỉ huy của họ mà. Nhiều người mắc kẹt nhưng mần răng chẳng có người thoát được.”

“Bà đừng có lo. Tui ở dưới dốc mà cũng thoát được nì, cái nhà của tui không còn hòn gạch mô còn nguyên hết.”

Tôi lại hy vọng:

“Nhất định là gia đình anh tôi sẽ thoát được.”

Nhưng nghĩ tới bà chị dâu yếu đuối, một bầy cháu nhỏ với đứa em gái thơ dại, tôi lại lo lắng. Ông anh tôi cũng yếu đuối lắm, cuối năm, cái tang lớn làm anh tôi chết đi sống lại mấy lần. Cả mấy ngày đám, anh tôi không ăn được một bát cơm và hôm đưa đám tang ba tôi, anh đã ngất xỉu trước mộ.

Thấy tôi đứng lặng người, Lài kéo tay tôi:

“Thôi mình về đi, ở đây trông ớn quá trời.”

Giữa đường tôi gặp vợ chống Bé, nó nói là nó ở lại đây đến ngày mai nó sẽ đi xuống Phù Lương, ở đây mà yên ổn gì. Tôi không trả lời. Thật ra, tôi cũng không còn có thể đoán ra nơi nào yên ổn hơn nơi nào nữa.

Má tôi đợi tôi ở đầu cổng, bà hỏi:

“Có tin gì không?”

Tôi nói cho má tôi yên lòng:

“Có người cho biết trên Từ Đàm họ tản cư lên Tây Thiên, Trúc Lâm nhiều lắm.”

“Rứa anh con răng không tản cư, đi lên Trúc Lâm rồi vòng ngả núi Ngự Bình về An Cựu được chớ.”

“Chắc anh còn kẹt chuyện chi đó.”

Má tôi thắc mắc:

“Người ta tản cư hết, răng nó chưa đi.”

Rồi bà nhất định ở lại đây để chờ. Khi vào nhà, mợ Giáo mua cho tôi một tô cháo lòng.

Tô cháo lòng nóng hổi, thơm phức, nhưng khi nuốt miếng cháo vào cổ họng, tôi lại thấy đắng ngắt.

Lúc này mà tôi còn muốn ăn ngon, muốn sung sướng, quả tôi là một người ích kỷ. Tôi đang nhớ con tôi, chồng tôi. Tôi đang lo cho anh chị tôi, em gái tôi cùng lũ cháu nhỏ. Tôi có thật được sống rồi không? Và sống có mỗi mình.

Nước mắt tôi trào ra. Lài hỏi:

“Răng không ăn đi, nóng há. Ừ, tô của mình nhiều tiêu quá, ăn nóng chảy cả nước mắt đây nì.”

Lài lại cười. Tôi quay đi dấu đôi giòng lệ. Má tôi vẫn còn ngồi ngẩn ngơ trước tô cháo. Tôi lau nước mắt nói:

“Ăn đi má.”

Má tôi nói:

“Con ăn đi con. Tội nghiệp con quá, mười mấy ngày nhịn đói nhịn khát.”

Tôi chớp mắt, màn nước mỏng nhòa dần và tôi nhìn thấy rõ khuôn mặt má tôi. Bà đang nhìn tôi chằm chặp. Bát cháo còn đặt trước mặt và làn khói đã mỏng dần, sắp nguội lạnh. Mấy miếng huyết heo nổi lều bều.

Tôi bỗng rùng mình, miếng huyết heo giống những vết máu bầm mà tôi đã nhìn thấy. Tôi đẩy tô cháo ra xa. Má tôi ôm mặt òa khóc:

“Mình thoát về đây ăn sung sướng, còn con cháu ra răng hở trời?”

Má tôi lại kêu trời. Không biết đã bao người nhớ tới ông trời để mà kêu trong những ngày biến loạn. Lài an ủi:

“Thôi bác, bác có khổ sở thì chuyện đã xảy ra. Còn có may rủi mà bác.”

Thái đã ăn hết tô cháo của nó. Nó lại đẩy tô cháo về phía tôi:

“Ăn đi chị. Có mà ăn, người ta chết về súng đạn, chết đói đầy đường.”

Tôi cố nuốt vài muỗng cháo cho má tôi và Thái vui lòng. Nhưng mỗi miếng cháo nuốt vào cổ, tôi nuốt theo cả sự xót xa bất nhẫn. Lúc ở ngoài đường, tôi đã nhìn thấy một đứa bé nhìn chằm chằm vào bà hàng cháo, nó đòi ăn nhưng bà mẹ cứ gạt đi, bế chạy về phía con đường dài. Đứa bé chòi đạp hai chân và khóc nhưng tiếng nó đã khản đặc, không còn ra hơi nữa.

Mợ Giáo kể chuyện ngóng được ở những người chạy loạn cho cả nhà nghe.

Cậu Giáo lo lắng:

“Không biết mình có lấy lại Huế được không. Trên đó mất thì dưới ni mình cũng không sống nổi!”

Mợ Giáo nguýt dài:

“Cái miệng của ông coi chừng đó. Túi qua họ về họ bắt đi mấy người đó tề. Có một hai người chỉ ở trên Huế về trốn họ cũng bắt. Người ta điềm chỉ đó nghe, cứ tin mà chết khi mô không biết.”

Má tôi lo lắng:

“Rứa mình ở nơi ni không được rồi.”

Thái tin tưởng:

“Bác cứ yên trí đi, họ không biết mình là ai mô. Chạy đi mô cũng rứa hết, ở mô cũng có họ rồi.”

Thái cố làm cho má tôi yên trí mà ở lại đây, chớ đọc qua đôi mắt nó tôi hiểu là nó đã quá mệt mỏi, liều đến đâu hay đó. Cậu Giáo mắng nó ăn mặc sạch sẽ, biểu lấy quần áo nhà quê mà mặc. Mợ Giáo cũng đưa cho tôi bộ đồ đen rộng thùng thình. Má tôi dặn tôi phải bối tóc kiểu Huế lên cho cao, lỡ đêm họ có vào hỏi thì nói là dân làm rẫy. Tôi soi người trong tấm kiếng và bỗng thấy mình xa lạ hẳn, tôi nhìn tôi cũng không còn nhận được nét quen thuộc nữa.

Từ giờ phút đó cho tới trưa chiều, tôi không rời mắt khỏi đường cái. Những đoàn người chạy loạn về càng lúc càng đông. Có hỏi họ chỉ khoát tay chỏ lại đàng sau với một câu nói vội vàng: Đánh nhau sau nớ, chết hết. Đến trưa chiều thì tôi thấy có người chở cả xác chết trên xe đạp mà chạy về.

Một gia đình ông bác sĩ ở đâu dưới dốc Nam Giao chạy về được Thủy Dương Hạ, họ đem theo được một chiếc xe Honda để tải đồ. Mấy cô con gái mặt không còn hột máu, ngơ ngơ ngác ngác ngồi nghỉ chân bên lề đường. Ông bác sĩ gọi gánh cháo lòng, mỗi người ăn tới bốn năm bát, vừa ăn vừa thở, nét mặt đang khổ đau rạng rỡ dần.

Một gia đình khác cũng chạy về tới đây thì kiệt sức, họ dọn dẹp một góc đình để ở tạm qua đêm. Bà mẹ lên cơn suyễn, chiều hôm đó bà chết. Người ta bu lại coi đông như kiến. Xác người đàn bà to béo nằm chình ình trên chiếc chiếu, mắt trợn ngược, hai tay còn nắm chặt gỡ không ra. Người chồng ngồi bên xác vợ thở ra thở vô, lâu lâu lại nhìn về phía thành phố Huế, những đụn khói cao ngất đang đùn mãi lên bầu trời màu chì như chiếc lưỡi xám của con quái vật. Xế chiều họ dọn đi đâu mất, khi tôi trở ra thì thấy nơi góc đình chỉ còn bỏ lại có chiếc chiếu. Tức thì một gia đình khác thay ngay vào chỗ đó. Chiếc chiếu thành nơi nằm ngồi của cả một gia đình mười mấy mạng người.

Lài kể cho tôi nghe một chuyện đã trông thấy. Hắn nói, vẻ mặt vừa cảm động vừa tức cười:

“Hồi chiều có một cô gái mặc đồ cao bồi, ôm cái áo măng tô mà khóc sướt mướt. Cô ta đi vô xóm, giơ áo măng tô ra đổi lon gạo mà không ai đổi. Cô khóc. Mình hỏi chuyện cô nói cái áo măng tô của bồ cô mua bên Mỹ, gửi về tặng. Cô đói quá, muốn đổi lon gạo mà không ai đổi. Mình định vô lấy gạo đổi mà mạ mình không cho. Nói để cái áo nớ trong nhà lỡ họ vô họ nói mình thân Mỹ, họ bắn luôn. Cô nớ đi gạ hoài, vừa khóc vừa năn nỉ mà chả ai đổi hết.”

Thời buổi này cả vàng bạc, châu báu, ngọc ngà cũng không quý giá gì hơn, miếng đất còn có ích để chôn xác chết chớ vàng bạc đâu có no được. Hột gạo lúc này là hột châu, quý giá hơn tất cả mọi thứ trên đời. Mợ Giáo đã dặn dò là nấu cơm phải cho nhiều nước để ăn mau no và nhớ hà tiện gạo.

Ngay chiều hôm đó, Thái đi vận động bà con mua hoặc xin mỗi nhà năm ba lon, nó kiếm được gần nửa bao gạo. Thấy Thái vác gạo về, mắt má tôi sáng rỡ:

“Thằng ni tài quá.”

Thái vất bao gạo xuống đất:

“Ăn hết chừng ni mà chưa yên là chết đói luôn. Không ai dám cho hay bán thêm một hột thóc.”

Dì Vạn của Thái chạy tới hỏi:

“Có ai mua vàng không? Ngoài đường, đoàn người tản cư về, họ bán một lượng vàng có mấy trăm bạc hoặc đổi lấy gạo.”

Mợ Giáo cười cay đắng:

“Một cục vàng đổi một hột gạo cũng không được. Có mà điên.”

Thái nhìn làn mưa bụi, than thở:

“Mưa ri khó đánh lắm. Bên mình có hơi cay nhưng mưa như ri làm răng mà thả được, nước mưa sẽ làm trôi hết.”

Cậu Giáo lắc đầu:

“Thôi, có người ta có mình, mi than thở làm chi.”

Mấy đứa con nít bỗng từ ngoài đường chạy ùa vào, mặt mày hớt hơ hớt hải. Rồi tiếng cả một đoàn xe rầm rộ kéo tới. Tôi nhìn ra đã thấy một đoàn xe Mỹ chạy từ phía Phú Bài lên. Nhiều người Mỹ nhảy xuống xe, nằm sát hai bên đường và bắn chỉ thiên ròn rã. Họ bắn cả vào rẫy, vào núi. Cậu Giáo hét mọi người vô hầm. Tất cả các cửa ngõ đều được đóng chặt lại.

Tiếng súng nổ như bắp rang từng loạt rồi xa dần. Đoàn xe rần rật chạy qua, có nhiều người chạy vào nhà, không kịp nằm mọp ngoài sân nơi chiếc bể cạn đợi đoàn xe chạy qua hết, tiếng súng xa dần mới đập cửa rầm rầm. Má tôi thì thầm:

“Má thấy ở nơi ni cũng không yên chi hết. Răng mà má lo quá con ơi.”

Má tôi lại có ý định đi tản cư nữa. Lần này thì chính má tôi đề nghị. Nhưng tôi đổi ý. Tôi biết là có chạy đi đâu thì tình cảnh cũng chả khá hơn. Má tôi làm thinh.

Ngoài đường đã hoàn toàn vắng vẻ. Bóng tối ập xuống rất nhanh. Mưa bụi dày dần và không khí lạnh toát. Má tôi ngồi bó gối trong góc phản gỗ, nhìn ra ngoài bầu trời đang đen dần. Bữa cơm hồi chiều tôi ăn được lưng một bát, còn má tôi ăn xong một bát thì lại khóc, những giọt nước mắt lăn xuống bát cơm và má tôi vội vàng bỏ đũa.

Hai chiếc hầm nổi đầy nhóc người, không có chỗ cựa quậy nữa. Tôi muốn qua bên o U ngủ nhờ, nhưng không dám bước ra sân. May quá, Hiền gõ cửa và gọi. Tôi theo Hiền qua nhà bên cạnh. Hiền là một sinh viên mỹ thuật, bà con bên ngoại của Thái. Căn nhà của Hiền ở khuất mặt đường hơn và đã đào được cái hầm sâu xuống nhà khá rộng. Hiền đốt ngọn đèn chỉ cho tôi coi mấy bức tranh mới vẽ. Nhưng tôi chả thưởng thức được gì, chả nhận được gì, đầu óc tôi căng thẳng tột độ. Tôi đang lo sợ nay mai tiếng súng sẽ tới đây, và chắc chúng tôi không còn sức để chạy nữa.

Hiền nói:

“Có mấy thanh niên tìm chị, họ hỏi em mà không biết ý chị ra răng!”

Tôi mỉm cười: Thôi, em tha cho chị, bây giờ mặt mũi chị thế này, quần áo rách bươm thế này. Để một dịp khác, nếu còn được sống. Thủy Dương Hạ là nơi chị ghi ơn trong những ngày chạy loạn. Tôi nhớ tới những hột vịt lộn Hiền bỏ trong túi giấm dúi đưa cho tôi ăn, tôi nhớ một vài khuôn mặt trẻ nhìn tôi nửa thương hại nửa buồn cười. Phải, tôi buồn cười lắm. Nhưng điều đó đâu có quan trọng gì, miễn là tôi sống được.

Đêm đó, tôi không nằm hầm mà nằm nơi chiếc giường rộng với o U, với cô con dâu của o U và đứa cháu nhỏ. Trời lạnh buốt, tôi trùm chăn kín đầu. Chiếc áo măng tô của ba tôi, tôi vẫn mang kè kè bên mình, kể cả lúc ngủ.

Thôn xóm im vắng một cách khác thường, không có cả tiếng chó sủa. Không có một tiếng súng nhỏ. Chỉ có tiếng đại bác trên ngọn đồi nhỏ bắn đi đều đều và tiếng ình ình một nơi xa vọng lại. Nơi xa đó là thành phố Huế, là Thành Nội, Từ Đàm, An Cựu, Nam Giao... Mỗi tiếng ình như xoáy tim tôi, tôi biết rằng, khi tôi được nằm yên ổn ở nơi đây thì trong thành phố đó, bao nhiêu người đang chết súng chết đạn, chết đói chết khát. Bao nhiều lồng ngực muốn vỡ tung, bao nhiêu giọt nước mắt hòa lẫn với máu.

Thao thức mãi rồi tôi cũng thiếp đi. Tôi chìm vào một cơn mơ dữ dội. Tôi thấy tôi chạy loạn cùng khắp các ngả đường trong thành phố. Những khuôn mặt các anh giải phóng như những người khổng lồ, luôn luôn muốn nuốt chửng tôi. Những trái đạn rơi đằng sau lưng, rơi đằng trước mặt. Và tôi cứ chạy, y hệt như những cảnh tôi sống qua. Sau lưng tôi những xác chết bật tiếng khóc đuổi theo, cả những bàn tay, khúc chân cũng chạy theo níu nữa. Dưới chân tôi máu chảy như suối. Nào xác Việt cộng, xác trẻ em, xác lính, xác Mỹ, xác bà già nằm ngổn ngang bít kín đường. Mặc, tôi bước qua xác họ và chạy tới đằng trước. Nhưng tôi bị kẹt giữa hai đụn khói khổng lồ. Trước mặt tôi cháy, sau lưng tôi cháy. Những đoàn người chạy loạn xuôi ngược, đạp bừa lên nhau. Tôi nhận ra trong đoàn người có cả đoàn người cầm cờ trắng chạy qua sông một ngày nào. Có cả má tôi, em Thái, anh Lễ, bé Hà chạy tít đằng xa và bỏ cách tôi.

Ở bên này cầu, một anh lính giải phóng bắc tay làm loa: Đồng bào hãy ở trong nhà, đừng ra đường. Ở bên kia, một anh lính quốc gia gào lớn: Hãy về phía hữu ngạn. Tản cư về phía hữu ngạn. Tôi không còn nhận ra phương hướng nào nữa. Nơi nào là hữu ngạn? Nơi nào là tả ngạn? Những dòng máu đã chảy ra tới bờ sông và mặt nước lạnh buốt có những làn chỉ hồng. Đống khói đằng sau lớn dần, đống khói trước mặt lớn dần. Khói bao bọc tôi, che kín mắt tôi, rồi những tiếng súng lớn nhỏ bắt đầu thi nhau nổ. Đoàn người kêu khóc, kẻ vượt chạy, người ngã xuống. Tôi cũng chạy theo. Nhưng không kịp nữa rồi. Một tiếng nổ lớn. Cả thành phố nổ tung theo. Người tôi như tan trong những mảnh gạch cát. Tôi còn kịp nghe tiếng kêu của tôi rú lên, bay vút lên bầu trời màu chì xậm.

Có bàn tay kéo tôi dúi xuống đất: Chạy vô hầm. Mau lên. Tôi chợt tỉnh. Một tiếng nổ rất gần rung chuyển cả căn nhà, mấy cánh cửa sổ bị bật tung cứ đánh ra đập vào liên tiếp. Tôi lăn tròn dưới đất mấy vòng thì tới miệng hầm.

Có lẽ tôi là người xuống hầm chậm nhất. Một tiếng nổ nữa tiếp theo. Mái nhà kêu rạt rạt như muôn ngàn mảnh vụn đang trút xuống trên mái tôn. Thì ra tiếng nổ trong cơn mơ của tôi kéo đổ một thành phố trùng hợp với tiếng nổ giữa đêm nơi làng quê này. Bàn tay ai bên sườn tôi run lập cập. Một tràng súng nhỏ nổi lên khắp nơi. Họ đánh nhau tới nơi rồi. Tôi nắm chặt lấy tay o U. Tay o U cũng run lập cập. Tôi nghĩ tới má tôi, chú tôi và Thái ở bên nhà cậu Giáo. Chắc má tôi cũng đang run lên như chúng tôi ở đây. Giọng Hiền nói nhỏ:

“Chắc đánh nhau rồi.”

Có tiếng đập cửa. Mọi người im lặng, nín thở. O U bỗng càu nhàu: Tổ cha con chó, nó ra sân rồi. Tiếng con chó sủa lên từng hồi, tiếng súng nổ lẻ tẻ rồi tiếng chân chạy khắp vườn. Tôi nằm rạp xuống sát mặt hầm. Họ đi lùng bắt dân làng rồi. Số phận tôi rồi sẽ ra sao? Tôi nhớ tới lời Hiền bảo lúc tối là có mấy thanh niên đã nhìn ra tôi. Không, tôi đã sợ quá rồi nghi ngờ bậy, không thể ai còn đủ sức để hại ai lúc này. Tuy vậy, lòng tôi không xua đuổi hết sự ngờ vực.

Tiếng chân chạy ngang vườn rầm rầm rồi có tiếng hú, tiếng gọi nhau: Khai hỏa rồi. Quới ở đầu non. Lục ở cuối sông. Tiếng hô bắn. Đó là những ám hiệu. Nhưng không biết họ có soát nhà không. Đó là mối quan tâm nhất của tôi lúc này. Tiếng chân dừng lại ở sân. Rồi tiếng chân lại chạy đi. Tiếng hô xa dần rồi im lặng hẳn. Lúc này những tiếng súng lại nổi lên. Tiếng Hiền gắt gỏng một mình:

“Đợi đi hết mới bắn. Thiệt đồ ngu.”

Một lát sau, có tiếng dân vệ la hét ngoài đường: Đuổi theo, anh em ơi. Nhưng chỉ mấy phút sau lại hoàn toàn im lặng. O U bắt chúng tôi ngồi suốt đêm dưới hầm, không cho lên nhà ngủ nữa.

Sáng sớm, tôi chạy sang nhà cậu Giáo trong lúc chưa có một nhà nào hé cửa. Tôi đập cửa thình thịch. Bên trong nghe ngóng một hồi rồi cánh cửa hé ra chỉ vừa một người lách vô rồi gài chặt lại ngay. Mọi người vẫn còn ở trong hầm. Má tôi đưa tay ôm chặt lấy tôi khóc vùi.

Thái thì thầm:

“Đêm qua bác lo cho chị quá, bác khóc cả đêm.”

Tôi ôm chặt má tôi hơn và không biết nói một lời nào để má tôi yên lòng. Chắc má tôi chẳng còn phút nào yên lòng nữa. Thái chỉ cánh cửa sổ bay mất từ bao giờ:

“Túi qua nổ mấy tiếng, mấy cái cửa bay hết rồi.”

Tiếng dì Vạn:

“Thì bom nó rơi đâu sát nhà mình nì. Tao nghe một cái rạt, tưởng cái hầm bay luôn. Tao cứ ôm cái đầu, tưởng cái đầu cũng tiêu luôn rồi.”

Mợ Giáo gắt:

“Dì răng hay noái bậy rứa thê.”

Túc, con trai cậu Giáo, đùa:

“Bay đầu còn hai chưn còn chạy được mà dì.”

“Nói răng mà nói tào lao tứ đế. Ở nơi súng đạn mà cái miệng chạch chạch.”

Một lát sau thấy không có gì lạ và ngoài đường đã có người đi. Cậu Giáo mở cửa. Một mảnh bom nằm chình ình ở trước sân. Mọi người chạy ra coi ngó một hồi. Thái đi ra đường một lúc rồi về cho biết là tối hôm qua Việt cộng đã giật cái cầu vực nơi cống. Nhưng giật luôn hai ba quả mìn mà không sập hẳn, chỉ lủng một lỗ lớn, xe không đi được nhưng đi bộ và xe gắn máy qua được.

Thái nói thêm:

“Túi qua họ về làng nhưng rồi rút đi hết. Chắc họ tưởng cầu sập rồi.”

Ngoài ngõ có tiếng gọi. Chúng tôi nhìn ra. Vợ chồng con cái Bé đang gánh gồng bồng bế nhau đứng ở đó.
Tôi chạy ra:

“Đi mô vậy?”

“Đi xuống Phù Lương, ở đây không yên rồi.”

“Xa không?”

“Xa, người ta đi được mình đi được chớ.”

“Biết ở dưới đó có yên không?”

“Người ta đi rần rần.”

Bé nói:

“Hỏi bác với chị có đi thì đi, không tụi em đi.”

Thái lắc đầu:

“Ở mô cũng rứa, biết mô ra răng mà đi.”

“Anh xuống dưới nớ, anh tìm đồn lính trình diện luôn. Tức quá.”

Thái làm thinh một lúc, suy nghĩ rồi hỏi:

“Anh có tin tức chi không?”

“Nghe nói thằng đồn trưởng của mi bị cắt cổ rồi. Cô cán bộ chạy về nói lại.”

Thấy Thái yên lặng, Bé tiếp:

“Mi ở đây răng họ cũng về lùng họ bắt. Họ biết là nhiều người tản cư về đây rồi.”

Má tôi đã ra tới nơi. Chú tôi đòi đi theo vợ chồng Bé. Thế là gia đình tôi lại chia thêm một lần nữa. Thái đứng nhìn vợ chồng Bé đi khuất khỏi cầu vực, thở dài:

“Mình vô đi bác.”

“Thái nhất định ở đây?”

Thái mím môi:

“Ở đây.”

Má tôi rưng rưng nước mắt:

“Dù răng đi nữa, ở nơi ni cũng gần An Cựu. Không biết trên ra răng rồi...”

Tôi biết má tôi đang nhớ tới căn nhà, tới bàn thờ ba tôi và ngôi mộ mới trên núi Tam Thái. Hôm đi tản cư xuống Thủy Dương Hạ, ngang qua đồng, má tôi nhìn lên phía núi hoài. Nhưng cũng như tôi, má tôi không thể phân biệt được mộ nào là mộ ba tôi. Nơi sườn núi là khu vực của người chết, và ngôi mộ nào cũng giống nhau như hệt.

Mấy ngày đầu ở Thủy Dương Hạ thật yên ổn. Nhưng từ hôm bắt đầu có tiếng nổ ở cầu vực thì ban đêm đại bác lại câu tới làng này. Tối nào chúng tôi cũng chui vào hầm thật sớm. Qua đêm thứ hai thì mấy tiếng nổ tiếp nữa, cầu vực hư hại hoàn toàn. Ban ngày Mỹ lên làm cầu, nhưng ban đêm thì họ rút về hết, nhường phần cho mấy anh giải phóng. Đến ngày sau nữa thì trong làng đã có vài nhà bị trúng đạn đại bác. Sáng nào cũng nghe người ta bàn tán xôn xao về những trái đại bác bắn ra ngoài sông, rơi vào nhà dân cư. Một hai nhà đã bị trọn. Ban đêm các anh giải phóng về lục soát bắt dân. Phía cầu vực đã bị chận lại, lính canh gác không cho dân đi về Phù Lương nữa. Chúng tôi bị kẹt ở Thủy Dương Hạ và lại chờ đợi sự rủi may.

Một vài người trên Huế tản cư về cho biết là ở An Cựu đã được giải tỏa. Quân Mỹ và lính quốc gia đã chiếm đóng, làm chủ hoàn toàn. Vài người trở lên để chở của nhưng họ trở về khóc lóc thảm thiết. Nhà cửa nào không bị sập thì cửa đã bị mở tan hoang và đồ đạc không còn gì hết. Cầu An Cựu đã bị giật sập ngay khoảng giữa, sự qua lại hết sức khó khăn. Má tôi hỏi thăm kỹ càng lắm, họ cho biết tuy đã giải tỏa được, nhưng lính quốc gia và Mỹ chỉ lên có ban ngày, ban đêm rút trở lại Phú Bài hết. Trong làng lại có tin giặc sắp tới đây, ở trên phố thua, thế nào họ cũng rút về quê. Người ta sửa soạn để tản cư. Má tôi và Thái quyết định trở lại An Cựu.

Mấy ngày liền, tôi nhìn thấy những đoàn xe chở đầy xác chết và binh sĩ bị thương chạy trở về, qua làng. Nhưng người ta vẫn ùn ùn kéo nhau trở lại Huế.

Nhưng đồng thời, cũng có đoàn người ùn ùn từ Huế kéo về. Kẻ chạy lên, người chạy xuống. Má tôi cho Thái đi dò đường trước. Nó đi khoảng chừng nửa buổi thì trở về:

“Nhiều người về An Cựu rồi bác. Mình về đi.”

Vậy là chúng tôi sửa soạn lên An Cựu. Má tôi dặn dò cậu Giáo nếu ở đây đại bác dữ quá thì lên trên đó. Mợ Giáo chia thêm cho má tôi ít gạo: Dù răng đi nữa ở dưới ni cũng còn có thóc, giã ra mà ăn, trên nớ kẹt là chết đói. Mợ Giáo, cậu Giáo và cả nhà đưa chúng tôi ra một khoảng đường rồi mới trở lui. Thấy nhiều đoàn người gồng gánh kéo nhau về Phù Lương, má tôi lại do dự. Thái phải nói mãi má tôi mới thở dài: Thì thôi cũng đành. Thái nói ở lại Thủy Dương Hạ hết sức nguy hiểm, nó nghe phong thanh: đêm, Việt cộng đã vô xóm bắt những thanh niên đi.

Tôi thấy hơi yên tâm khi thấy có nhiều người đi trở lên, họ mang theo những thúng, gióng không. Tôi hỏi, họ cho biết là quân Quốc gia đã chiếm An Cựu họ đang kiểm soát trên đó, lên xem còn chi thì chở đi không bị trộm cắp lấy hết.

Tiếng đại bác vẫn nổ ình ình nơi phía thành Huế. Mặt má tôi tái xanh, môi bà run rẩy:

“Mần răng chừ, trên đó còn bắn nhau.”

Thái quả quyết:

“An Cựu về phía ta rồi, đại bác bắn lên miệt Bến Ngự, Từ Đàm.”

Quả đúng như lời Thái nói, lên tới Mù U, tôi nhìn thấy bóng những quân nhân thấp thoáng. Họ vác súng đi thành từng hàng, hoặc lẻ tẻ đứng gác ở hai bên đường. Lên tới đồn Trường Bia thì tôi càng vững lòng hơn nữa. Lính ở trong đồn rất nhiều. Phía ngoài, họ đứng gác cẩn thận lắm. Khi chúng tôi đi ngang qua, bắt gặp những tia mắt họ nhìn, tôi muốn cười mà không cười nổi. Tôi chắc họ cũng thế, những đôi mắt nhìn chúng tôi cho tới khi chúng tôi đi xa. Một vài nhà hai bên đường hé cửa. Vài người thò đầu ra hỏi:

“Về lại hả?”

Má tôi gật gật đầu, hỏi lại:

“Yên chưa?”

“Ồ, được rồi. Đào hầm trốn đạn. May rủi biết mô bác ơi.”

Một tiếng nổ lớn như xé rách màng tai. Chúng tôi vội vã nằm dạt xuống đường.

Một tiếng nói trong sân nhà nào nói vọng ra:

“Đạn mình bắn đó. Sau đồn Trường Bia bắn đi mà.”

Tôi đứng dậy, ngượng nghịu phủi đất rồi kéo má tôi đứng dậy theo. Bà nhìn quanh nhìn quất:

“Vắng quá, chưa có mấy người về.”

Rồi bà hỏi một đầu người trong một cửa nhà vừa ló ra:

“Mới về?”

“Không, tui ở nơi ni từ mấy bữa ni.”

“Không can chi hả?”

Người đàn bà thò đầu ra nhiều hơn, giơ hai ngón tay rồi chỉ về phía góc sân:

“Chết hai người.”

Tôi nhìn theo tay người đàn bà chỉ. Hai nấm mộ đất đắp sơ sài nơi góc sân lạnh lẽo không có một que hương. Tôi kéo chặt hai vạt áo măng tô rồi quay mặt đi nơi khác. Người đàn bà vẻ mặt choắt lại, không biết sự khắc khổ từ lâu hay mới biến đổi khuôn mặt bà ta. Nhưng bà không có vẻ gì bi thảm hết. Tôi rùng mình, mười mấy ngày rồi, họ chừng như đã quen với máu, với sự chết chóc bi thương.

Gần đến nhà, chân tay tôi run rẩy quá. Tôi vừa mừng vừa sợ. Tôi tỏ ý lo lắng ngôi nhà đã đổ nát, không còn toàn vẹn nữa. Hôm đi xuống Thủy Dương tránh nạn, ngang qua đường cái, tôi đã cố nhìn vào ngôi nhà, nhưng đạn đằng sau lưng như xô tôi chạy tới, và những hàng cây loáng thoáng che khuất khu vườn. Trong những ngày ở Thủy Dương, biết đâu ngôi nhà đã sập. Người ta chả đồn đãi vài câu chuyện hết sức thương tâm và khôi hài là gì. Đoàn quân Mỹ lên An Cựu thấy ngôi nhà nào còn nguyên lành hoặc tình nghi là bắn bừa vào, bất kể bên trong có người hay không. Hoặc họ tràn vào nhà, đứng ở miệng hầm mà bắn tràn vào hầm. Họ sợ Việt cộng núp trong đó. Càng gần nhà, chân tôi càng bước mau hơn. Thái và má tôi cũng thế. Khi đi thì gia đình tôi thật đông, khi về chỉ còn má tôi, tôi với Thái. Dì Vạn với cô con gái đang sửa soạn, nói sẽ lên sau. Vợ chồng Bé về Phù Lương rồi. Thu cũng bỏ đi theo.

Khi sắp bước vô ngõ, khu vườn của chúng tôi khuất ở đằng sau một khu nhà khác và con ngõ đi vào dẫn tới cổng trồng hoa cẩn và chè tàu, tôi bỗng nghe tiếng gọi đằng sau. Thì ra chú tôi đang tất tả đi theo. Vợ chồng Bé bàn tính như thế nào mà bỏ ông ở lại. Tôi đẩy cánh cổng sắt khép hờ. Ngôi nhà bỗng bừng sáng lên như chào mừng chúng tôi với những dấu hiệu mới mẻ. Mái ngói bị trụt hoặc lủng lỗ vì đạn rốc két, vì bom chơm. Trước nhà, bức tường nứt một khoảng lớn và những cánh cửa sổ bị sức dội của bom đạn mở toang hoang. Tuy vậy, hai cánh cửa chính vẫn đóng. Thái nhảy lên thềm trước tiên. Nó đặt bao gạo xuống, quay lại nhìn má tôi rồi móc túi lấy chìa khóa. Tôi thấy tay nó run rẩy và mặt nó tái đi. Cánh cửa mở, ánh sáng tràn vào căn nhà. Những đèn nến thắp dở, những liễn đối, những bông hoa cườm đập vào mắt tôi. Tôi chạy ào vào nhà, gục đầu nơi bàn thờ ba tôi. Má tôi ngồi bệt xuống đất cất tiếng khóc. Và Thái, tuy đã theo công giáo và rửa tội từ lâu, nó vẫn tìm hương thắp lên bàn thờ ba tôi ở gian trên, rồi cầm nắm hương còn lại thắp các lư hương ông bà, những người thân đã chết. Tôi nhìn lên bàn thờ ba tôi, tấm ảnh phủ vải đỏ cùng tất cả lư trầm, bàn nến đều phủ một lớp bụi dày. Mắt tôi chợt bắt gặp những lỗ thủng trên mái nhà và má tôi đang gọi Thái, tay cầm một mảnh bom hay đạn gì đó, sần sùi, xám ngoét màu kẽm.

Một lát, chúng tôi đi lục soát xem có mất mát gì không. May quá, những thứ chúng tôi bỏ lại đều còn nguyên, chỉ những thứ đem đi mới mất. Thái quả quyết là chưa ai vô nhà. Kể ra cũng chả ai thèm vào ngôi nhà này làm gì, ba tôi vừa mới chết xong, khu nhà lại bỏ hoang không người ở từ lâu, hôm đám ba tôi xong, liễn đen trắng hoa cườm, vàng hương đầy nhà, trông vào như một khu nhà mồ. Nếu ai lạc vào khung cảnh tang tóc, tiêu điều thế này, chắc cũng hoảng lắm. Nhưng vì đây là nhà chúng tôi, nơi kia là bàn thờ tổ tiên, nơi nọ là bàn thờ vừa thiết riêng cho ba tôi, tôi mới có được cảm giác ấm cúng và bình yên như thế này.

Má tôi bảo đóng bớt cửa sổ lại, cửa lớn cứ khóa bên ngoài trừ khi có việc gì cần đi ra ngoài, để họ lầm tưởng là nhà bỏ không. Tôi nhìn ra cửa sổ quan sát xung quanh hàng xóm. Bên khuôn tịnh độ Nam An thật vắng vẻ, những nhà xung quanh đó cũng thật vắng vẻ. Nhưng một lát, tôi thấy một ông già đi ra trước sân, dừng lại nơi cột cờ thường treo cờ Phật giáo khi lễ lạc, ông đứng ngó ra con đường vắng vẻ, hai tay chắp sau lưng. Tôi muốn gọi ông già hỏi chuyện nhưng má tôi đã kéo tôi trở vào. Thái nói:

“Mình phải làm hầm lại. Hầm này có chắc chi mô.”

Hai chị em tôi cùng với ông chú phụ nhau sửa lại hầm. Ngay chiều hôm đó, Túc và Lài từ dưới Thủy Dương Hạ lên. Túc cho biết dưới đó không yên và lên đây ở tạm. Một lát Hiền cũng đi xe Honda vào. May thay, chúng tôi vừa bỏ Thủy Dương đúng lúc. Cũng trong chiều hôm đó vợ chồng Bé trở lại nữa. Đi giữa đường chúng nó đã bị chặn lại, nghe đâu dưới xa kia có xe bị bắn và tấn công, đoàn xe Mỹ bị kẹt lại, đêm nay chưa chắc đã về dưới Phú Bài được. Nhờ đông người, chúng tôi mở cửa bếp. Dưới bếp, hồi trước ba tôi có cho một ông giáo viên thuê. Hôm Tết, vợ chồng con cái về quê ăn Tết và khóa cửa lại. Dưới bếp có sẵn một cái hầm nổi bằng bao cát, chúng tôi khuân tạm lên nhà làm một cái hầm nổi ở phía sau bàn thờ. Thái vừa làm vừa hỏi tôi có thấy chi lạ không. Tôi nói không. Thái nói khi hồi đi vô nhà, ngay qua cổng nhà đằng trước xây mặt ra hẻm vô nhà chúng tôi, Thái thấy nơi nhà đằng trước có một ngôi mộ trước sân. Trên mộ có nén hương và một nải chuối xanh. Tôi nhớ lại nhà hàng xóm đằng trước đã bị đạn và bốc cháy ngay sáng mồng hai, có mấy người bị thương chắc một người đã chết. Thái nói nhỏ:

“Bác gái đằng trước chết chôn ở đó. Họ đi mô hết rồi, nhà bỏ không.”

“Còn mấy người bị thương nữa mà.”

Thái lắc đầu nói: Em chịu. Thái cũng như tôi, làm sao biết thêm gì hơn nữa. Chúng tôi lại lăng xăng làm hầm. Ở trước khuôn có hiệu đồ mộc, Thái ra khiêng được mấy tấm ván khá tốt, đem vào kê hầm.

Chiếc hầm coi cũng tạm được, nó chia làm hai ngăn. Ngăn trong dành cho má tôi và mấy chị em. Ngăn ngoài dành cho đàn ông. May thay, nhà tôi vừa xong đám ma, có rất nhiều đèn cầy, thắp tới mấy tháng chắc cũng không hết. Thái lại tìm ra một thùng dầu hỏa. Ba tôi dạo còn sống vẫn ưa tích trữ đồ, ông sắp về hưu và định dùng khu vườn cùng nhà thờ họ này làm nơi an dưỡng tuổi già.

Chiều tối hôm đó, chúng tôi ăn cơm rất ngon. Cơm gạo giã tay, ăn với thịt kho mặn. Món ăn này do mợ Giáo đài thọ từ lúc còn ở dưới Thủy Dương. Chúng tôi ăn thật nhiều cơm. Vì làm việc mệt và đói nữa, chắc má tôi phải nhường mất một nửa phần của bà.

Đêm đến, trước khi gài cửa ngõ cẩn thận và chui vào hầm, dì Vạn đốt hương trên bàn thờ ba tôi, lâm râm khấn nguyện. Rồi đi ra sân thắp hương vái bốn phương. Cây mai nơi bể nước vẫn còn lơ thơ mấy bông, dì đem hương cắm ở gốc cây mai đó. Chúng tôi nằm đất, lèn sát nhau mà vẫn không đủ chỗ. Lài với Túc không chịu nằm hầm, trải chiếu nằm ngoài nhà. Má tôi lo lắng bàn tính chuyện những ngày sắp đến. Dì Vạn càu nhàu nói, dù sao đi xuống dưới Phù Lương vẫn yên hơn là ở đây. Nhưng má tôi nói chạy đông chạy tây đã hết rồi, giờ về đây có chết cũng không còn tiếc chi nữa. Ở đây còn mong được biết tin con cháu.

Vợ chồng Bé và chú tôi thì lên nhà của họ phía trên đường rầy từ chiều. Bé cho biết trên đó người ta về cũng đông lắm rồi. Nhiều gia đình khi chạy còn nguyên lành, khi về thiếu mất vài mạng. Họ đã chết dọc đường. Má tôi dặn: ban đêm ai gọi cửa đừng mở. Thái khôn khéo ra ngoài khóa cửa lại rồi leo cửa sổ mà vào. Nó nghĩ rằng làm như thế có ai gọi họ tưởng là nhà bỏ không. Mà đúng như vậy, nửa đêm có nhiều tiếng súng nổ nhỏ, rồi tiếng chân đi ngoài vườn. Tiếng chân đi mạnh bạo không thèm dấu diếm gì hết. Tiếng chân dừng lại ở trước cửa nhà rồi có tiếng gõ cửa. Tiếng đàn ông nói:

“Có ai không. Mở cửa. Mở cửa.”

Có tiếng khác gắt:

“Đồng chí chỉ hoài công, tối nào cũng gõ. Họ bỏ nhà hoang mà.”

“Khu vực này người ta về đông lắm rồi. Biết đâu chủ nhà đã về.”

“Nhưng nhà này có tên trong danh sách không đã chớ?”

“Có tên, nhưng ông già làm công chức đó đã chết rồi.”

“Vậy thì thôi. Con cháu họ ở kệ họ. Tôi đoán chắc chưa có ai về đâu. Nhà này ai mà dám ở.”

Tiếng chân xa dần. Có tiếng chó sủa trong xóm ra. Một lát có tiếng đại bác nổ gần. Lài chui tọt vào hầm. Chúng tôi phải ngồi dậy mới đủ chỗ. Tiếng đại bác rơi đều đều, xa có, gần có. Có tiếng quá gần, dội tức ngực làm chúng tôi co rúm người lại. Lài nắm tay tôi hỏi: Vân ngồi mô. Đây nì. Ở nơi ni dễ sợ rứa hỉ. Tiếng dì Vạn nói:

“Im đi, đừng có rì rào.”

Xa xa tiếng súng lại nổ ran. Đánh nhau ở đâu có vẻ lớn lắm. Chúng tôi thao thức lo lắng một vài giờ rồi cũng mệt quá ngủ thiếp đi.

Sáng ngày, dì Vạn dậy trước nhất. Dì ngóng ở cửa nghe động tĩnh rồi mới mở hé cửa. Ngoài đường vắng ngắt, nhìn nhà nào cũng hoang vắng đến dễ sợ. Thái chui ra sân trước tiên, rồi tới tôi, tới Lài. Buổi sáng trời vẫn lất phất mưa và lá cây trong vườn xanh một cách kỳ lạ. Qua những đám mây lam sà thấp, tôi bỗng hình dung được phía sau một bầu trời xanh lơ và ánh mặt trời rực rỡ. Má tôi, dì Vạn cũng chạy ra: Nam mô A Di Đà Phật, một đêm yên ổn đã qua. Dì Vạn chấp tay vái bốn phương trời. Chúng tôi nhìn nhau, mừng mừng tủi tủi. Lâu nay chúng tôi vẫn sát nhau kề cận bên những nguy hiểm mà không nhìn thấy nhau hay sao mà bây giờ, đứng trước sân lại mừng tủi như sau bao ngày gian nguy mới gặp nhau, thấy nhau vẫn còn lành lặn.

Nhưng cơn mừng tủi chưa dứt, ngoài quốc lộ, một đoàn xe Mỹ chạy từ Phú Bài lên, súng bắn rát vào hai bên ruộng. Chúng tôi không ai bảo ai đều chạy vào nhà đóng chặt cửa. Đoàn xe Mỹ qua một lúc thì Thái lại nói:

“Có lính mình lên.”

Nó đứng bên cánh cửa sổ hé mở và nhìn ra ngoài. Má tôi nói:

“Phải sửa lại cái hầm. Thằng Thái nhớ đào thêm đất đổ lên cho dày nghe.”

Mặc dù cố gắng hy vọng nhưng chúng tôi chưa thấy dấu hiệu gì chứng tỏ mình là người sẽ sống sót trong thành phố này, sau biến cố.

Đêm thứ nhất trở lại thành phố, mặc dù có tiếng đại bác, có tiếng súng nổ ran ở xa xa, chúng tôi vẫn còn được ngủ yên được mấy tiếng đồng hồ trong chiếc hầm chật hẹp.

Không may cho chúng tôi, chiếc hầm được sửa sang mới ba bốn hôm thì người thuê căn nhà bếp là một giáo viên tiểu học dạy trường An Cựu trở về.

Thấy cửa bếp bị mở tung, ông có vẻ không bằng lòng. Ông vội vàng bỏ hết đồ đạc vào mấy cái giỏ lớn, ngỏ ý đòi mấy bao cát lại để xây hầm đưa vợ con về tạm trú, xong ông ta lại lên xe Honda đi mất. Sáng sớm hôm sau chúng tôi lại dỡ hầm, mang bao cát xuống bếp trả lại, rồi cùng nhau làm tạm một cái hầm mới không lấy gì làm kiên cố lắm. Người thuê căn nhà bếp trở về sửa sang lại cái hầm, nhưng ông chỉ đưa vợ con về có một hôm để lo thu dọn chở đồ đi nơi khác. Chiếc hầm dưới bếp bỏ không, Thái lại mò xuống lấy thêm bao cát lên chất cho dày.

Mấy ngày sau, quốc lộ một nối vào An Cựu có vẻ tấp nập hơn trước, người tản cư đi, người hồi cư về có vẻ đông đúc hơn. Một vài gia đình tạm trú lại một buổi hoặc một ngày nơi sạp mộc, rồi họ lại tiếp tục đi về Phù Lương, Phú Bài.

Mỗi ngày, vợ chồng Bé xuống cho chúng tôi ít tin tức. Nào đêm qua Việt cộng về đầy ở ngoẹo Hàng Xay. Nào sáng nay quân mình đi gỡ cờ treo trước đồn vận tải. Hoặc: Bác ơi, sắp đánh tới nơi rồi. Họ sắp đánh chiếm lại An Cựu.

Tôi không thể nào hiểu được việc gì sẽ xảy ra nữa. Nhưng khu vực An Cựu thì có vẻ bình yên hơn. Một hai ngày đầu, chúng tôi không thấy gì lạ, nhưng vợ chồng Lài thì đêm nào cũng nghe tiếng chân đi qua vườn. Vài ba hôm, Hiền, Lài và Túc về dưới Phù Lương. Nhiều gia đình tản cư về dưới đó vì nghe dưới Phù Lương, Phú Bài có lập trại tỵ nạn. Vợ chồng Bé gan lì ở lại cho tới một hôm có mấy quả đại bác không hiểu vì tính sai tọa độ hay cố ý rơi trúng vùng An Cựu vào đêm khuya. Lúc đó chúng tôi đang nằm trong hầm, mỗi người đều bị dội bật lên và túm chặt lấy nhau. Hai ba tiếng nổ liên tiếp thật gần rồi im lặng hẳn. Sáng ra Thái đi ngóng tình hình, thấy ngoài đường người ta khiêng mấy người bị thương đặt bên đường, tìm cách đưa đi bệnh viện Mỹ. Gần chín giờ sáng, một đoàn xe lính đi lên, nhưng không chiếc nào dừng lại. Rồi tới mười giờ, những người lính biệt động quân, nhảy dù, từ dưới Phú Bài đi bộ lên. Không có phương tiện nào nữa, mấy người bị thương đã chết. Hai căn nhà hoàn toàn hư hại, mái tôn của nhà trúng đạn văng tuốt ra tận sau đường rầy. Rồi đêm hôm sau lại nổ nữa, lần này xa hơn một chút, và sáng hôm sau, vợ chồng Bé hớt hơ hớt hải bế bồng nhau xuống nhà chúng tôi:

“Không ở được rồi. Lính mình ở Sài Gòn ra, đánh lớn lắm. Đang chiếm lại nhà bưu điện. Dân dồn về hết nơi trường kiểu mẫu. Đêm qua bom chơm rơi trên xóm con, mấy cái nhà nữa bị sập.”

Má tôi thở dài. Thái lo lắng:

“Có ai bị thương không?”

“Không, may người ta đều ở hầm hết. Đêm qua anh tưởng nguy rồi chớ.”

Và không đợi hỏi ý kiến ai, vợ chồng Bé, Thu cùng mấy đứa nhỏ gồng gánh, bồng bế đưa nhau về Phù Lương.

Má tôi thấy tình hình gay go quá, nửa muốn đi nửa muốn không. Má tôi vẫn ngóng đợi tin tức ở Nam Giao, Từ Đàm. Nhưng có được chút tin tức nào thì chỉ toàn là những tin tức làm chúng tôi thêm tuyệt vọng.

Trong những ngày trước, dân chúng Huế chết vì đại bác, vì bom máy bay, vì bị đấu tố, điểm chỉ. Chúng tôi ở An Cựu, coi như giáp với ngoại ô thành phố, có chạy loạn thì cũng chạy vì sợ bị Việt cộng bắt, hoặc bị trúng đạn chết oan. Nhưng lần này, ác chiến đã diễn ra khắp cùng thành phố. Một vài nơi quân quốc gia đã chiếm lại được, những lá cờ giải phóng đã được gỡ xuống. Ở đồn Trường Bia đã thấy thấp thoáng lính ra vào, nhưng ở đồn vận tải vẫn bỏ không. Cầu An Cựu ban ngày được Mỹ lên canh gác và sửa chữa. Phải nối xong mấy cái cầu, quân đội mới dàn qua bên phố được. Phía bên hữu ngạn mới chỉ yên ổn có mấy vùng. Tin tức đưa về thành nội, phố Trần Hưng Đạo vẫn do họ chiếm giữ. Ở Nam Giao, Bến Ngự, Từ Đàm vẫn là nơi họ đóng quân.

Chúng tôi về lại thành phố đúng lúc phe quốc gia cố giành lại từng tấc đất thật là một trò đùa nguy hiểm. Nhưng chạy thoát thân một mình để một nửa gia đình bị kẹt lại, quả trong lòng chúng tôi không ai muốn thế.

Giữa lúc chúng tôi được trú ngụ ở một phần đất tương đối ít nguy hiểm thì thành phố Huế rơi vào lúc ngập súng đạn, máu đổ. Và nhờ có một người thoát từ phố về, chúng tôi biết được những tin tức kinh hoàng bên kia sông Hương.

Một buổi sáng, Thái thấy một đoàn xe đi lên, tới cầu rẽ lên phía Phú Cam, rồi rất nhiều đoàn lính dù, biệt động quân đi bộ từ dưới Phú Bài lên. Một lúc sau lại thấy Mỹ tới sửa tiếp cầu An Cựu. Thái kêu tôi ra đường:

“Người ta đi lại nhiều rồi chị.”

Má tôi dặn:

“Đừng có ra đường nghe tụi bây. Quân mình lên là sắp đánh nhau lớn rồi đó.”

Quả như lời má tôi đoán. Chỉ chừng nửa tiếng đồng hồ sau khi đoàn lính đi qua, là tiếng súng lớn nhỏ nổi lên ở miệt Phú Cam, Bến Ngự. Và một số dân chúng bồng bế nhau chạy loạn về An Cựu để xuống Phù Lương.

“Đánh nhau lớn rồi.”

Má tôi kêu chúng tôi chui vào hầm hết. Nhưng gần tới trưa chúng tôi mới nhớ ra là nhà chưa có gì ăn, chỉ còn ít gạo.

Thái nói:

“Hồi nãy con thấy dưới Mù U có bán thịt heo. Dưới đó với chỗ mình ở yên rồi, thuộc vùng quốc gia rồi.”

Má tôi làm thinh. Thái lại nói:

“Để con với chị Vân đi mua thịt. Họ bắn nhau ở trên Bến Ngự lận mà bác.”

Tôi cũng muốn ra đường coi tình hình nên nói vô giúp Thái:

“Con với nó chạy ra mua một chút về liền mà má.”

Má tôi thở dài:

“Ừ, mà đi mau nghe.”

Tôi theo Thái chui ra khỏi hầm. Má tôi dặn:

“Tránh đạn mà đi nghe con.”

Câu nói của má tôi làm tôi vừa thương vừa buồn cười. Làm sao tránh đạn được. Nhưng tôi cứ dạ cho má tôi yên lòng. Tôi với Thái không đi xuống Mù U mà rủ nhau đi ra thẳng phía cầu An Cựu.

Thiệt chúng tôi đã gan cùng mình. Ngoài đường không có một người đi, lính Mỹ lính Việt xuôi ngược tíu tít chuyển quân.

Họ chả buồn chú ý tới chúng tôi nữa. Chúng tôi ra tới cầu An Cựu, thấy cầu nổi đang được công binh Mỹ làm gần xong, chúng tôi không dám đi đường cái mà vòng lối sau đi theo con đường nhỏ sau ruộng mà về nhà. Nhiều hố bom đào những hầm lớn, trời mưa, nước đọng thành từng vũng. Ngang qua một khu vườn bỏ không, chúng tôi nghe thấy tiếng động sau một bụi tre.

Thái kéo tôi:

“Đi nhanh chị.”

Tôi tò mò ngoái lại nhìn qua những nhánh tre thưa, tôi nhìn thấy những ngôi mộ đất đắp vội vàng, ở trên mộ cắm thẻ kiểm tra và cạnh đó, một chiếc hầm cá nhân, một xác lính Bắc Việt đang nằm vắt nửa trên nửa dưới miệng hầm, không biết bị thương hay đã chết, cạnh đó một hố bom và những cành cây khô, những nhánh tre ngã gãy tả tơi. Qua mấy ngôi vườn bỏ hoang, chúng tôi tới một thửa ruộng nhỏ vuông vắn, ruộng bỏ không và nước lúp xúp. Tôi không biết đường nên cứ đi sau Thái. Có tiếng máy bay tới gần, Thái kéo tôi nằm mẹp xuống đường, đợi cho máy bay khuất mới tiếp tục đứng lên đi lần về nhà. Khi tôi đứng dậy, tôi bỗng nghe tiếng rên rỉ. Tôi dừng lại thì Thái đã kéo tay tôi: Đi chị. Thái nói nhỏ:

“Bọn họ bị thương, không khéo họ bắn mình. Đi ngả tắt ni thiệt dại hết sức.”

Thái cầm chặt tay tôi và lôi tôi đi theo nó. Nhưng tiếng rên một lúc một rõ và một van nài hơn. Cứu tôi với. Cứu tôi với. Cứu tôi với. Tôi không thể làm ngơ được, rõ ràng là tiếng người sắp chết. Tôi nhìn quanh quất và chợt nhận ra một thanh niên đang gục bên một chiếc hố nông, hình như người ta đào rồi bỏ dở nửa chừng, hay một miếng bom nào cày lên cũng nên. Thanh niên mặc một chiếc áo măng tô màu xám, dính đầy máu. Thái nhìn thấy và nó biết không phải quân giải phóng. Tôi kéo Thái lại gần:

“Chắc là sinh viên hay học sinh chi đây.”

Chúng tôi đã đứng bên cạnh. Hình như nhận ra tiếng chân người, khuôn mặt bê bết đất ngẩng lên, một giòng máu rỉ chảy bên mép. Thanh niên đưa tay ôm ngực và muốn gục xuống. Thái vội nhảy xuống hố đỡ thanh niên dậy:

“Tôi chết mất,” người thanh niên rên rỉ.

“Anh ở mô tới?”

Thái cúi tai sát người thanh niên. Anh ta cố gắng đưa tay chỉ về phía, phía trước là những vườn cây. Tôi không hiểu. Thái hỏi:

“Anh ở bên phố thoát sang?”

Thanh niên gật đầu.

Vừa lúc đó lại có tiếng máy bay tới gần. Lần này hình như tới mấy chiếc và bay liệng ngay trên đầu chúng tôi. Người thanh niên ra dấu chúng tôi nên lánh đi và cho biết Việt cộng còn ẩn núp trong nhiều khu vườn nơi này nên Thái đưa tay ra dấu cho tôi đi trước rồi dìu thanh niên đứng lên. Tiếng máy bay như sắp hạ xuống trên đầu, Thái hét lớn:

“Chạy vô nhà trước mặt.”

Tôi chạy thẳng vào chiếc ngõ mở sẵn, Thái đã tới sát lưng. Chúng tôi bước qua mấy bực thềm là vào nhà. Căn nhà bỏ không, có một hầm cát nhưng Thái vừa nhìn vào đã bụm miệng lùi lại:

“Có người chết.”

Tôi định chạy ra nhưng bên ngoài đã có tiếng súng nổ. Một loạt đạn trên máy bay bắn xuống. Tiếng rốc két như rơi ngay trên đỉnh đầu. Thái đành kéo tôi chạy xuống bếp, ở đây có chiếc bể cạn. Thái đặt thanh niên ngồi dựa nơi bể nước rồi kéo tôi bắt nằm sấp xuống đất.

“Đừng có ngẩng đầu lên. Có đạn ngoài vườn đó.”

Tôi nằm sát xuống đất, hai tay ôm lấy đầu. Thái bình tĩnh hơn, nó xé áo lau vết thương cho thanh niên và băng bó lại. Người thanh niên đã bớt sợ và tỉnh táo hơn. Anh cho biết anh ta tên là Khâm, ở trong thành nội. Anh đã thoát được bằng cách giả làm đàn bà, chạy theo đoàn người tràn ra cửa thành và vét hết tiền đem theo để thuê một chuyến đò qua sông. Anh mở hé chiếc áo măng tô ra, bên trong là vạt áo dài màu xanh nhuộm đầy máu. Chiếc khăn trùm trên đầu đã rơi mất tự bao giờ.

Tiếng máy bay vẫn lượn vòng, mặc tiếng đạn từ dưới đất bắn lên như mưa, và cứ mỗi vòng tròn lượn trở lại là những loạt rốc két bắn xuống xối xả. Tim chúng tôi đập liên hồi. Chắc giờ này má tôi ở nhà lo lắng lắm, theo phương hướng thì tôi đoán ở phía nhà tôi không việc gì, mé này gần Phủ Cam. Nằm ở nơi đây tôi thấy bấp bênh quá, có thể trúng đạn bất cứ lúc nào. Tôi nghĩ tới chiếc hầm ở trên nhà nhưng Thái cho biết là có người chết. Tôi tò mò hỏi Thái:

“Em thấy gì trong hầm vậy?”

“Có một người chết ở trong đó. Dễ sợ lắm, em nhìn vô thấy một người nằm ngửa, tay chân khô queo, hai mắt như còn mở và hướng về miệng hầm. Bên cạnh đó có những vũng máu đặc, em nhìn thấy mấy con chuột đang chạy lui chạy tới lăng xăng, có con đang ngậm vào đầu ngón tay ngón chân của xác chết.”

Tôi rùng mình, muốn bỏ ngôi nhà chạy ra ngay. Nhưng bên ngoài lúc này đầy rẫy sự nguy hiểm. Tiếng súng dưới đất nhỏ dần rồi rút về miệt xa hơn. Hình như họ đã bỏ những hố cá nhân để chạy thoát khi tiếng máy bay còn lượn vòng. Và khi tiếng máy bay quành trở lại thì không còn nghe tiếng bắn trả ở xung quanh nơi chúng tôi núp nữa. Khâm có vẻ tỉnh táo hơn, anh đã tựa được lưng vào thành bể cạn, Thái lấy cái lon múc nước ở bể cạn cho Khâm uống nhấp nháp. Anh ta mất máu nhiều quá, khuôn mặt xanh lè và hai mắt sâu, chứng tỏ nhiều đêm mất ngủ. Mặc dù tiếng đạn dưới đất không còn bắn lên nữa, nhưng máy bay vẫn lượn vòng trên đầu, chúng tôi biết là chưa thể thoát ra khỏi ngôi nhà này được. Khâm nói, giọng yếu ớt:

“Mấy ngày trước chỉ sợ bị giải phóng bắt, xử tử. Chỉ sợ chết bom. Nhưng lúc này sao tự nhiên tôi chẳng sợ gì nữa. Tan nát hết rồi.”

Và Khâm bắt đầu kể cho chúng tôi nghe về cuộc chạy trốn của Khâm. Chuyện của những người kẹt ở bên kia dòng sông Hương.
Chương 7

Chuyện từ thành nội

Không hiểu do một phép lạ nào mà ngôi nhà vẫn còn nguyên vẹn.

Chúng tôi sống chật hẹp trong chiếc hầm đào sâu xuống đất, trên miệng hầm, xung quanh chất toàn bao cát, như vậy là đã mười mấy hôm.

Chuyện gì? À, mấy ngày đầu. Mấy ngày đầu thì đâu có gì kinh hoàng. Cũng như các vùng khác, đêm mồng một, chúng tôi nằm lăn sát đất, chui cả xuống gầm giường vì tiếng súng bắn khắp mọi phía. Sáng ngày ra là Việt cộng đã đầy nhà, đầy vườn. Họ đi lại ngoài đường đông nghẹt. Ðồng phục à? Không. Họ vận đủ các thứ quần áo. Có tốp mặc áo ka ki hẳn hoi, nhưng phần đông họ mặc quần đùi. Ðặc biệt là người nào cũng có đeo băng màu nơi tay, hoặc quàng khăn nơi cổ.

Chuyện gì xảy ra vậy? Huế mất rồi sao?

Chúng tôi nhìn nhau dò hỏi, muốn chạy qua hàng xóm hỏi thăm tin tức cũng không được nữa. Ai ở yên nhà nấy. Và họ ra lịnh mỗi nhà phải tự đào hầm lấy bắt đầu tập chịu đựng gian khổ để chiến thắng. Chúng tôi đã lấy được Huế, các nơi đang đánh nhau, đợi toàn quốc chiếm được hết là thắng lợi. Quân giải phóng nói vậy.

Mấy ngày đầu vui lắm. Họ nấu cơm, ăn uống trong nhà chúng tôi. Nghe nói họ sẽ tổ chức liên hoan nữa. Rồi họ chở đâu tới thiệt nhiều mứt bánh, nhất là bánh tét, và họ ăn uống lu bù. Ăn như chưa bao giờ được ăn.

Hôm đầu tiên tôi sợ lắm, gia đình tôi cũng sợ cho tôi nữa. Tôi là con một, lỡ có chuyện gì chắc mạ tôi không chịu nổi. Nhưng mấy ngày đầu thiệt êm thắm. Tôi còn được nghe họ nói chuyện nữa chớ. Họ nói chuyện vui lắm. Em tôi hỏi cả chuyện ngoài Bắc, họ nói đời sống ngoài Bắc no đủ. Nhưng nhiều anh cán binh Bắc Việt nhìn mấy cô gái mặc quần ống chật, áo sơ mi hoa hòe thì tỏ vẻ ngạc nhiên. Tôi nghe họ xì xào với nhau:

"Con gái ở trong này đẹp quá, ăn mặc đầy đủ quá."

Mấy chị nữ cán bộ thì ghét ra mặt. Bởi vậy, qua ngày thứ hai, các cô gái Huế trong thành nội biết được sự không ưa thích đó và thay đổi lối ăn mặc liền. Mấy ngày đầu êm ru, thỉnh thoảng lắm mới nghe tiếng súng nổ xa thiệt xa, đâu phía bên hữu ngạn, mà tận vùng ngoại ô, không ai để ý nữa.

Có mấy nữ cán bộ vác xe của thiên hạ ra tập. Nhiều nhà đã trốn ra Gia Hội được từ hôm đầu, ngay tờ mờ sáng. Họ đi thật là dại, ban đầu chúng tôi nghĩ thế. Nhà họ bỏ không, mấy cô nữ cán bộ tha hồ mà vào lục lọi. Vật mà các cô ưa thích nhất là xe đạp và xe Honda. Nhìn thấy các cô cán bộ xăn áo xăn quần đến háng mà tập xe đạp thì không nín cười được. Nhưng buồn cười mà đâu có dám cười, chúng tôi lo sợ cho tương lai lắm. Chưa biết rồi sẽ ra sao. Mấy anh lính Việt cộng có vẻ lạc quan. Toàn quốc thắng trận, đồng bào yên tâm. Họ báo tin cho biết vậy. Và ở trong thành nội, chúng tôi ngạc nhiên thấy họ tràn vào khơi khơi, tôi không thấy có vẻ gì là đụng độ, đổ máu cả. Chắc tại tôi không ra khỏi nhà. Ngay từ sáng tinh sương ngày mồng hai, má tôi đã đóng chặt cửa lại, chúng tôi chỉ được nhìn ra đường qua kẽ hở.

Nhưng dù qua một kẽ hở rất nhỏ, tôi cũng nhìn thấy ngoài đường rất đông người đi lại. Các anh lính Việt cộng đều mang băng xanh hoặc băng trắng nơi cánh tay áo.

Không khí đường phố thay đổi thật đột ngột, bên cạnh những khuôn mặt lo lắng núp sau những cánh cửa, có những bộ mặt tươi cười, ra chiều hết sức hớn hở. Nhà ông giáo Kê, một người đàn ông đứng tuổi đã bỏ nhà đi tập kết hơn mười năm, bỗng xuất hiện. Ông ta có một bà vợ hàng ngày đi bán chè và một cậu con trai khoảng chừng 17, 18 tuổi. Sự xuất hiện của ông giáo Kê làm mọi người lo lắng. Mạ tôi nói giọng run run:

"Thôi chết rồi, ông nớ về là ông biết hết trong vùng ni, thế nào ông cũng bắt bớ lung tung cho coi."

Tuy lo vậy, nhưng nhân vật ông giáo Kê cũng chưa làm cho chúng tôi kinh hoàng bằng hai căn nhà ngay ở đầu đường Nguyễn Hiệu bỗng trở thành nơi ra vào tấp nập của các anh cán binh Việt cộng. Người ta đồn với nhau có hai nữ sinh viên là cán bộ nằm vùng. Hai cô ở ngay căn nhà đầu đường, có người trông thấy hai cô mặc quần tây, áo sơ mi, đội nón lá đi đi lại lại trên đường, lưng đeo súng lục kiểu Tiệp Khắc. Tôi không biết được tên của các cô, nhưng người ta cho biết hai cô là sinh viên trước ở Sài Gòn. Tôi đoán một vài tên trong số bạn cũ quen thuộc, nhưng chưa có gì làm bằng cớ chắc chắn.

Cũng nơi đường Nguyễn Hiệu, một ông thợ mã trước theo Việt cộng, đã trở về hồi chánh nay trở thành cán bộ nằm vùng. Người ta lo nhất là bộ mặt này. Anh ở đây đã lâu, và thế nào anh cũng lập công, chỉ điểm một số thường dân. Má tôi lo lắng hỏi tôi có làm chi cho ông ta thù oán không. Tôi suy nghĩ mãi không tìm ra chuyện gì, tuy nhiên tôi cũng không an tâm. Mấy ngày liền tôi không dám ra đường. Má tôi hễ thấy mặt tôi ló nhìn ra khe cửa là lôi lại, kéo tuốt vô trong buồng, đóng cửa kín mít.

Nhưng mấy ngày qua, tôi chưa thấy chuyện gì lạ xẩy ra, ngoài việc các người lính Việt cộng vào từng nhà bắt đi học tập. Tôi lại được mạ tôi đem dấu trên trần nhà. Con em gái tôi phải đi học tập. Khi về, nó cho biết là lớp học được tổ chức ở nhà ông giáo Kê. Tôi hỏi học những gì, nó cho biết là người ta yêu cầu các cô vào từng ban, ban cổ động, ban cứu thương, ban tiếp tế. Tôi hỏi nó chọn ban gì thì nó chỉ cười lắc đầu:
"Em run bất chết. À, em có gặp..."

Tôi hỏi nó gặp ai thì nó làm thinh, mặt lộ vẻ sợ hãi. Tôi gạn hỏi thêm mấy lần, nó vẫn không dám nói. Nó còn tiết lộ cho tôi biết là thanh niên sinh viên bị bắt đi học tập đông lắm.

Cả ngày hôm đó, tôi không ăn cơm được, tôi cảm thấy cổ họng khô đắng. Hình như tôi sắp cảm nặng. Câu nói nửa úp nửa mở của đứa em gái làm tôi không an tâm. Tối hôm đó, tôi rời khỏi trần nhà xuống đất nằm, tôi hỏi lại nó. Lần này giọng nó run run như sắp khóc:

"Em gặp cô Ðoan, cô Ðoan ở đầu đường mình đó anh."

"Hai cô lận mà?"

"Thì cô Ðoan với cô Kim ở đối diện nhà nhau đó."

"Nó có nhìn ra em không?"

"Có, nó hỏi anh đi mô mà không tới học tập, em nói anh đi về quê hôm hăm tám Tết. Nó cười, nói ngày mồng một nó gặp anh đi ra cửa Ðông Ba với anh Hạo, anh Toàn. Em lo quá."

"Rồi em trả lời răng?"

"Em làm thinh."

"Nó nói chi nữa không?"

"Có, nó khuyên em nên gia nhập mặt trận liên minh, hòa bình chi đó. Em cứ làm thinh. Nó nói em giúp nó được. Nó hẹn sẽ gặp em sau."

"Em thấy thầy Ðóa đi họp không?"

"Em không thấy thầy mô hết."

"Còn ông giáo Kê về ra răng?"

"Ông giáo Kê diễn thuyết hăng lắm. Em sợ quá chả nghe gì hết, mà có nghe cũng không hiểu. Anh nì, ông đi tập kết về râu dài tới ngực, coi dễ sợ quá. À anh, em thấy hình như có anh Ðắc nữa."

"Ðắc?"

Tôi kêu lên sửng sốt. Thôi chết rồi, Ðắc đã trở về. Nhưng tôi không tin Ðắc có thể là một người cộng sản được. Ngày trước, tôi cũng có chân trong nhóm tranh đấu với Ðắc. Ðắc thường tâm sự là anh không thể chấp nhận cộng sản. Rồi một thời gian sau, vì bị theo dõi, ruồng bắt, Ðắc trốn đi.

Có người nói Ðắc với Ðoan với Ngọc cùng trốn một lượt. Lần này Ðắc trở về, chắc Ngọc và Phan cũng trở về rồi. Tôi thầm lo ngại, ngày trước Phủ có một cô nhân tình cũng ở trong thành nội này, sau khi Phủ đi ít lâu, cô tình nhân đã vội thay lòng đổi dạ theo một người khác. Ngoài việc bị khổ sở vì trốn tránh, Phủ còn mất luôn người yêu nữa. Lần này nếu trở về, chắc Phủ sẽ đau khổ ghê lắm. Liệu chuyện gì sẽ xảy ra? Tôi hỏi gặng mãi em gái tôi có nhìn thấy Phủ không. Có ai nhìn thấy Phủ không? Nó quả quyết là nó không thấy, cả bạn bè của nó đi họp cũng nói không thấy. Tôi hơi yên tâm và mừng thầm cho kẻ phản bội. Nếu Phủ trở về, thêm một mối thù hận nữa, cô bé thay lòng kia chắc cũng không tránh được hậu quả thương tâm. Nhưng em gái tôi cười gượng:

"Anh tưởng về tới Phủ mới biết răng! Em tin là Phủ không chấp nhận mô. Nhưng Phủ và Ngọc không có mặt ở nội thành."

Tôi không khỏi bùi ngùi nhớ lại bạn bè cũ. Dù Ðắc, dù Ngọc, dù Phủ có bỏ đi, có theo lý tưởng nào nữa, dù thù nghịch với tôi, tôi cũng vẫn còn giữ những kỷ niệm về họ. Tôi tự tin tôi, tôi tin bạn bè. Trước đây, Ðắc đã bị dồn đến bước đường cùng, phải trốn theo bên kia, nhưng sự có mặt của Ðắc không còn làm tôi lo sợ nữa, mà nghĩ tới Ðắc, tôi bỗng cảm thấy yên ổn hơn một chút. Tôi định bụng là phải gặp cho được Ðắc. Tôi không tin là có chuyện gì sứt mẻ trong tình bè bạn. Ngày hôm nay, hay ngày mai, thế nào tôi cũng có dịp gặp lại Ðắc. Tôi phải gặp. Tôi hỏi em gái:

"Em có nói chuyện với anh Ðắc không?"

"Em thấy một người giống như anh Ðắc thôi chớ em chưa dám nhìn. Anh ấy đeo băng xanh, có súng nữa."

"Em coi bộ anh ra răng?"

"Có vẻ trầm ngâm chớ không hách dịch như mấy tên cán bộ nằm vùng khác. Anh biết xóm mình chán chi cán bộ nằm vùng, rứa mà mình biết chi mô."

Tôi hỏi tiếp:

"Rứa họ học tập cái chi?"

"Thì như anh nằm trên nhà khi mai anh nghe đó. Họ tới nhà họ nói mời đi họp, em định trốn nhưng cô Ðoan cô đứng đầu ngõ gọi ngay tên em nên phải đi. Họ nói đi họp mà họ còn bắt học tập nữa. Rồi họ diễn thuyết, tuyên truyền về thắng lợi."

"Họ tuyên truyền răng?" Tôi nôn nao.

"Họ nói chiến thắng lấy được Huế là nhờ sự đóng góp của nhân dân. Vậy các trẻ em về nhà tìm những khúc tre, khúc gậy ngắn rồi sơn đen, khi mô nghe tiếng máy bay quân Mỹ ngụy tới thì đem ra chĩa lên trời để bọn Mỹ ngụy tưởng là súng, phải khiếp đảm trước tinh thần chống đế quốc, tay sai của nhân dân Huế. Họ còn nói là đồng bào đừng để cho một tên Mỹ ngụy, một tên Việt gian nào trốn trong nhà. Gặp trường hợp đó phải báo cáo cho giải phóng biết ngay."

Tôi kinh hoàng:

"Việc xúi con nít sơn khúc tre giả làm súng có thiệt há?"

"Em nghe rõ ràng nì. Họ còn tuyên truyền nhiều lắm. Nì anh, trước khi họp, các anh giải phóng còn đọc khẩu hiệu, rồi đến 7 nhiệm vụ của đảng viên, rồi lời của "bác" Hồ, em nhớ như ri thì phải: Trung với đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Họ hô lớn mà hô nhiều lần, em bất thuộc làu."

Tôi gắt: Kệ xác họ. Tôi đâu cần phải biết, phải nghe những khẩu hiệu trung thành với bác với đảng. Chính những người lính Bắc Việt đi vô Nam, họ thuộc làu những khẩu hiệu đó, nhưng chắc cũng có người không hiểu tại sao phải trung thành, phải chết.

Nhưng lời tuyên truyền đó đã gây một hậu quả tai hại. Về sau, khi các trận đánh diễn ra, không hiểu vì những tiếng súng ở các hố cá nhân bắn lên, hay vì những dùi, gậy của các em nhỏ bị bắt ra chĩa lên trời mà máy bay bắn xuống như xối xả.

Suốt đêm đó, tôi không ngủ được. Sáng ngày ra đã phải lên trần nhà nằm. Em gái tôi vẫn chạy qua hàng xóm dò tin tức, nhưng tôi không dám chường mặt xuống nhà chớ đừng nói ra đường. Tôi sợ họ biết mặt. Nhất là ông thợ mã hồi xưa là Việt cộng, nay về hồi chánh đã trở thành một cán bộ nằm vùng. Ông không ưa bọn sinh viên như tôi. Rồi còn nhà ông giáo Kê nữa, cả cậu con mười bảy mười tám chi đó, ít khi nói chuyện với tôi đàng hoàng. Em gái tôi đã nói dối là tôi bị kẹt lại ở dưới quê, tôi sợ em tôi mang vạ vì sự có mặt của tôi nữa.

Ngay sáng hôm đó, trước nhà tôi, sau vườn tôi nghe có tiếng cuốc đất. Rồi một lúc sau có tiếng lao xao dưới nhà. Tôi nín thở nằm yên nghe ngóng. Một giọng nói đàn ông lớn tuổi, giọng Quảng Bình thì phải, và hình như nói chuyện với mạ tôi:

"Mẹ phải cho đào hầm. Chúng ta còn phải đương đầu với rất nhiều khó khăn. Quân Mỹ ngụy có thể đem máy bay tới thả bom để giết nhân dân. Nhưng không sao, chúng sẽ thất bại nặng nề."

Tiếng chân đi rảo quanh nhà. Tiếng mạ tôi năn nỉ:

"Dạ nhà tui đơn chiếc, ba chúng nó khuất núi lâu rồi, chúng tui mạ góa con côi... Dạ, bánh tét trong nhà làm... Dạ bánh cúng..."

"Ở ngoài Bắc nhân dân ta ăn Tết vui lắm."

"Dạ."

"Năm nay, Bác cho chúng tôi được vào đây ăn Tết với nhân dân trong này. Gặp các mẹ, các chị, chúng tôi sung sướng lắm."

"Dạ."

"À, tôi quên, giá gạo của bọn Mỹ ngụy bán bao nhiêu một bao?"

"Dạ, mỗi tạ mấy nghìn, ba nghìn có, hai nghìn có."

"Bọn Mỹ ngụy bán cắt cổ, uống máu nhân dân. Ðợi khi giải phóng xong, gạo chỉ bán năm trăm đồng một tạ."

"Dạ."

"Nhà mẹ có ai giúp đỡ đào hầm không?"

"Dạ mạ con tui đào. Ngoài tui với con nhỏ, với thằng con trai lên mười ni còn mấy đứa cháu. Còn có bà dì, bà ngoại. Dạ không dám làm phiền mấy ông."

Tiếng chân đi vào phía bàn thờ. Tôi đoán ra bước chân mạ tôi vội vã như muốn ngăn lại:

"Dạ mấy hôm nơi bàn thờ dọn rồi."

Giọng đàn ông cười giả lả:

"Không, mẹ cứ việc cúng chớ."

"Dạ, cúng... Mà mấy hôm ni ai còn lòng dạ mô mà cúng. Hôm mồng một tưởng chết rồi, nhờ ơn ông bà... Dạ thưa ở trong nớ không có chi hết. Dạ có bánh, bánh tét. Dạ mời, mời ông... à mời... đồng chí."

"Cám ơn mẹ. Nhân dân miền Nam tốt với giải phóng quá. Chúng con hết sức ghi ơn mẹ giải phóng..."

Tiếng chân đi ra khỏi nhà rồi xa dần. Ðợi một lúc tôi ló đầu xuống, tấm cạc tông che miệng trần nhà vừa hé ra, tôi đã thấy mặt mạ tôi nhìn lên, hai tay bà chấp trước ngực:

"Tui lạy ông, ông ở trên đó cho tui nhờ. Chúng vừa vơ vét hết bánh trái rồi."

Tôi sợ má tôi lo lắng, vội rụt đầu lên và kéo miếng cạc tông lại. Suốt ngày hôm đó, tôi nằm bẹp trên trần nhà. Ðợi lúc nào thật vắng, em gái tôi đưa cơm lên hoặc rót cho ly nước lạnh.

Mấy hôm sau, họ ít vào nhà, có lẽ họ không còn hồ nghi gì gia đình chúng tôi nữa. Cô em gái tôi vẫn cứ phải đi họp, đi học tập. Nó về mách với tôi:

"Ðúng anh Ðắc anh ơi."

"Nó có nhìn ra em không?"

"Có. Anh cười nói: Con Hường em Khâm đây phải không? Mới đây mà lớn quá hí." Em nhớ ngày trước anh Ðắc hay xoa đầu em lắm.

"Vậy em có sợ không?"

"Không, anh hiền lắm anh ơi. Anh hỏi thăm anh, rồi hỏi thăm mạ nữa. Anh nói rảnh anh tới thăm mạ."

"Trời ơi, em có khai anh trốn trong nhà không?"

Hường cười:

"Em mô có dại. Anh ấy cũng không hỏi riết bắt bí em chi hết. Anh chỉ nói: Khâm có sao không? Em nói dạ không. Rồi em nhớ ra nói liền:

Tại anh Khâm về mắc kẹt dưới nhà quê. Anh hỏi quê ở Bao Vinh phải không? Em gật đầu, anh hơi giật mình. Anh có vẻ lo sợ cho anh nữa."

Tôi cảm động và tự thẹn thầm. Thì ra Ðắc vẫn còn là bạn tôi. Ðắc không hề thay đổi gì hết. Vậy tại sao Ðắc trở về? Về với nhiệm vụ gì? Lòng tôi càng nôn nao muốn gặp Ðắc hơn. Tôi ngỏ ý với Hường là muốn dự một buổi họp. Hường nói:

"Không được mô. Anh Ðắc thì hiền lành nhưng có mấy người khác dữ lắm. Họ nói chuyện hung hăng thiệt dễ sợ."

Rồi Hường thì thầm vào tai tôi:

"Anh nì. Khi hồi ngang qua ngã ba em thấy ai như anh Tý. Anh ấy ôm áo quần như muốn đi trốn xuống đường Mai Thúc Loan."

"Ủa, thằng Tý. Nó dám chạy trốn hả?"

"Không biết anh ơi. Nhưng em thấy hắn cũng đeo băng trắng nơi cánh tay. Hay là hắn cũng theo Việt cộng rồi."

"Cái thằng đó dám lắm. Ai chớ nó thì việc chi mà không dám làm."

Tôi hậm hực. Nhưng đồng thời cũng lo sợ nữa. Nếu nó theo giải phóng, nó dám tìm bắt tôi hoặc điểm chỉ cho bắt tôi lắm. Tôi nói với Hường:

"Em đừng có cho nó gặp, nó hỏi lôi thôi."

Tôi sợ nó nhìn thấy em gái tôi rồi nhớ ra tôi. Có thể vì nhiều việc, nó đang quên tôi cũng nên, nhưng gặp mặt một ai liên quan tới tôi, có thể nhắc nó nhớ. Thường ngày tôi không ưa nó, kể cả khi còn trong nhóm tranh đấu, tôi đã nhiều lần nói với bạn bè:

"Thằng Tý không tin được. Nhưng nó dám có mặt trong đám quyết tử, nó đã lường lọc bao nhiêu anh em."

Thấy tôi trầm ngâm, Hường vội nói:

"Em thấy anh Tý là em tránh liền, em sợ bất chết."

"Em con gái việc chi mà sợ hắn?"

"Em sợ anh nớ bắt em. Em thấy mấy đứa bạn cùng đi họp với em thấy anh nớ là núp hết."

Tôi cười, cố trấn an con bé:

"Kệ nó, mình có mần chi mà sợ."

"Anh không biết đó, dưới đường Ông Ích Khiêm, họ bắt hết rồi. Công chức, quân nhân bị bắt đi hết. Nhất là mấy người làm sở Mỹ."

"Mình có làm sở Mỹ mô mà sợ. Cũng không công chức nữa mà."

"Dưới nớ bị bắt thiệt nhiều. Nhiều người cũng có làm chi mô mà cứ bị bắt như thường."

Ðúng như lời em gái tôi đoán, qua ngày sau, xóm tôi ở, các thanh niên, công chức và quân nhân bị bắt đi hết. Một vài người trốn chạy bị bắn tại chỗ. Nhà chúng tôi đã làm xong được một cái hầm khá kiên cố bằng bao cát và những tấm ván lấy ở bộ ngựa gỗ quý từ mấy đời để lại.

Tuy vậy, ban ngày tôi vẫn trốn trên trần nhà, ban đêm mới dám xuống hầm ngủ. Tôi đã bắt đầu chán nản và mệt mỏi. Giữa lúc đó thì mọi người hoảng hốt vì đại bác câu tới nơi. Nằm áp tai xuống đất, tôi nghe tiếng rầm rì liên hồi như xe tăng chạy ở đâu bên ngoài thành nội, đôi lúc tôi mơ hồ nghe tiếng máy bay.

Một vài nhà đã trúng đại bác. Người ta cho biết đại bác trúng nhiều nhất là các bờ thành. Người ta còn cho biết là lá cờ ở Phú Văn Lâu đã bị hạ xuống và treo cờ giải phóng rồi. Nhưng khi đại bác câu tới thành nội, ai nấy đều hoảng sợ ra mặt. Thêm những cuộc bắt bớ gắt gao của Việt cộng làm không khí càng kinh hoàng hơn.

Một buổi tôi đang nằm trong hầm nhai mấy miếng bánh mì khô thì nghe phía đầu ngõ có tiếng chân rượt đuổi. Tiếng hô:

"Ðứng lại. Ðứng lại."

Tiếng chân chạy vòng đằng sau vườn chúng tôi. Tiếng chân đuổi rầm rập, có vẻ nhiều người và hối hả. Một tiếng nổ, một tiếng kêu rú lên. Tôi bịt chặt hai tai lại. Mạ tôi ôm chặt lấy Hường và mấy đứa em nhỏ của tôi đứa nằm sát xuống mặt hầm, đứa ôm chân má tôi, đứa ôm chân Hường mếu máo.

Một lúc sau, tiếng chân từ ngoài vườn đi vào giữa sân. Tôi nghe tiếng lao xao:

"Tại nó chạy. Nó đúng là quân tay sai cho Mỹ ngụy."

"Nó chết hẳn chưa đó?"

"Chưa chết rồi cũng chết. Mà có thiệt nó làm cho Mỹ không?"

"Nó làm cho Mỹ mà. Ngày thường tui thấy nó có nhiều đô la lắm."

"Vậy thì đúng rồi."

"Không có tui thì nó trốn được rồi. Trong xóm ni ai chạy trốn đàng trời tui cũng biết. Tụi nó phải trả nợ máu, phải không, thưa đồng chí tổ trưởng."

"Ðồng chí tích cực lắm."

Tôi nghe giọng người điểm chỉ viên quen quen. Hình như bác ta ở đâu trong xóm trong. Hường cũng định lên tiếng thì mạ tôi đã gắt nhỏ:

"Im đi, nó nghe nó vô chừ."

Chúng tôi im lặng. Nhưng rồi có tiếng xô cửa rồi tiếng chân đi vào nhà:

"Nhà đi đâu vắng hết rồi. Chúng tôi mời lên có chút chuyện."

Mạ tôi lật đật chui ra. Rồi Hường cũng chui ra.

"Dạ."

"Có người mới bị bắn sau vườn. Chúng tôi sẽ cho người tới đem chôn. Chúng tôi muốn dặn lại là đừng có chứa chấp bọn Mỹ ngụy. Xin bác hãy giúp chúng tôi, tức là giúp đảng, giúp nước nhà độc lập."

Má tôi dạ dạ luôn miệng. Một giọng khác nói:

"Nhà này chỉ có mấy người đàn bà con nít mà."

"Bởi vậy chúng tôi mới dặn. Ðể chúng vào, chúng giết cả nhà, chúng tôi không kịp cứu."

Hường ngây thơ hỏi:

"Dạ thưa các anh, các anh vừa bắn ai đó?"

Giọng người điểm chỉ viên quen quen:

"Thằng cha Minh. Hồi chưa được giải phóng, nó hách nhất xóm nhà ta phải không? Cô xác nhận cho các đồng chí đàn anh đây biết."

Tôi nghe Hường dạ rất nhỏ. Tiếng người điểm chỉ hỏi:

"Cậu Khâm mô không có ở nhà?"

Tim tôi đập mạnh. Thôi chết rồi, hắn đã nhắc tới tôi. Tôi đoán không lầm, đúng là người nấu bún ở trong xóm. Thường ngày hắn chỉ ở nhà xay bột làm bún, vợ hắn đem bán sỉ bán lẻ cho bạn hàng. Hắn cũng ít nói chuyện với ai lắm. Giọng Hường cố thản nhiên:

"Dạ anh cháu bị kẹt dưới Bao Vinh rồi. Hôm nớ xuống mừng ông bác rồi chưa kịp lên thì xảy ra..."

"Dưới đó thì khỏi lo, hoàn toàn thuộc về quân giải phóng và nhân dân rồi."

Hường khôn khéo vuốt đuôi:

"Dạ thì ở đây cũng thuộc về giải phóng rồi."

"Còn một chút trong sư đoàn nữa, chưa thanh toán xong. Nhưng chúng sẽ chết đói hết bây chừ. Nay mai mình có thêm quân tiếp quản từ Quảng Trị, từ Bắc vô nữa, lo chi."

Hắn còn đứng ba hoa tán tụng dài dòng nữa rồi mới cùng mấy đồng chí đàn anh bỏ đi.

Tôi thở phào nhẹ nhõm, coi như là vừa mới may mắn thoát chết. Em gái tôi chui xuống hầm, nói nhỏ cho tôi nghe:

"Tên bán bún trong xóm đó anh. Hắn lì lì rứa mà ai ngờ."

"Hắn bắn ai rứa?"

"Ông Minh. Ông chết rồi."

"Hắn đi với ai?"

"Thì với mấy người Việt cộng chớ ai nữa. Khi đang nói chuyện, em thấy chị Ðoan và chị Kim đi ngoài đường."

"Có thấy em không?"

"Có, họ có vẫy tay chào em nữa."

"Em hết sợ chưa?"

"Sợ chớ hết chi được. Hồi hôm qua họp, gặp em hai chị lì lì có chào hỏi chi mô. Anh nì, bữa ni có vẻ lùng xét bắt bớ dữ lắm rồi đó. Anh cẩn thận một chút."

"Người ta có số mạng cả mà em."

"Gặp anh Ðắc, chắc anh không việc chi anh hí?"

Tôi thở ra, không mấy tin tưởng:

"Anh mần răng biết được."

Má tôi đã trở vào:

"Ông Bèo bán bún mà Việt cộng đó tụi mi ơi."

"Con nghe giọng nói con cũng đoán ra."

"May mà nhà mình không thù oán chi với hắn."

"Không thù oán mà hắn còn nợ mình nữa chớ má," Hường nói, "Hôm mụ vợ đẻ, hắn có tới vay mạ mấy trăm. Hôm trước Tết mạ biểu con đi đòi, may con quên chớ không chừ sinh ra thù oán rồi."

Vừa lúc đó chúng tôi nghe nhà bên cạnh có tiếng đàn bà kêu khóc. Má tôi ra dấu chúng tôi yên lặng rồi lắng tai nghe"

"Bên nhà ông Bình."

"Giọng bà Bình la đó chớ ai vô nữa."

Hường cầm chặt tay tôi:

"Hình như họ bắt người."

Tiếng la khóc nhà bên mỗi lúc một lớn:

"Lạy các ông, chồng tui vô tội, con tui đi học mà."

Giọng đàn ông thản nhiên:

"Không can gì đâu mẹ. Mời bác với anh đi họp rồi về mà... Ði họp rồi về, mẹ cứ an tâm. Chúng con tới đây là để giải phóng Huế, chúng con nhờ sự giúp đỡ của nhân dân thành phố Huế mà."

Tiếng kêu khóc yếu dần. Một lát sau có tiếng đập cửa. Hường mở cửa thấy Tịnh đi vào, mặt mày tái mét:

"Tụi nó bắt anh Ðịnh đi rồi. Ba tui cũng bị bắt."

Mạ tôi hỏi:

"Chừa cháu tính răng?"

"Mạ cháu nói cháu chạy sang đây nhờ bác cho cháu trốn đỡ. Bên nớ thế nào họ cũng trở lại bắt cháu đi."

Má tôi thở dài sườn sượt:

"Thôi cũng được. Xuống dưới hầm đi."

Tịnh đem tới cho tôi nhiều tin lạ lắm. Nào ngoài cửa thành có nhiều Việt cộng chết vì trúng đạn đại bác, bom chơm. Nào nghe ngoài Gia Hội đấu tố ghê lắm. Nào chuyện xử tử mấy người nghi làm cho Mỹ rồi chôn xác trong mấy khu vườn phía đường dưới. Tôi hỏi tại sao bác bên nhà đã già mà họ còn bắt đi. Tịnh cho biết là họ vào trong nhà, cùng đi có ông Bèo làm bún trong xóm. Ông nói nhỏ gì đó rồi mấy người giải phóng mời đi luôn. Lúc đó Tịnh trốn dưới bếp, chắc ông Bèo quên Tịnh, không điểm chỉ.

Má tôi nói:

"May mà mình không thù oán chi."

"Bên cháu hình như cha thù lắm. Trước Tết cha tới vay tiền mạ cháu không cho. Cha vay mấy lần không có trả. Với lại hồi cha say rượu chửi bóng chửi gió gì đó, anh Ðịnh cháu có nói phải trái, chắc thằng cha nó thù rồi chừ nó hại."

Tịnh lắng nghe tiếng khóc còn nỉ non bên nhà, nhăn mặt:

"Má cháu lạy nó mà cháu bất nóng mặt. Ước gì cháu có khẩu súng, cháu ria cho một tràng rồi cùng chết cũng cam."

Tôi an ủi:

"Chắc không can chi mô, bác già rồi. Họ bắt đi rồi cũng thả về chớ can chi mà lo."

"Dạ."

"Dưới xóm nghe nói có nhà trúng bom rồi phải không?"

"Hình như rứa. Hồi nãy bên nhà em, ông Bèo hăm dọa là nhà nào dung túng Mỹ ngụy dễ bị bom nhứt, vì họ nghi là Việt cộng chiếm những nhà đó."

"Nói như c. vậy mà cũng nói."

Má tôi lầm bầm. Ðêm đó, tiếng đại bác chưa tới khu tôi ở, nhưng thỉnh thoảng cũng có vài trái rơi lạc, trúng vào một vài khu vườn, làm bay ngói, rung nhà. Ngoài đường, lính Việt cộng đã bớt đi lại. Họ rút vào những hầm trú ẩn kiên cố. Nếu có gác đường thì họ cũng đào những hố cá nhân.

Từ hôm đó, em gái tôi vẫn thường bị mời đi họp, học rồi được thả về. Lần nào tôi cũng hỏi thăm về Ðắc. Bữa nó nói có trông thấy, bữa nó nói không. Nhưng bỗng một hôm, tôi nghe được giọng nói của Ðắc.

Hôm đó, trong lúc cả nhà đang ăn cơm dưới hầm thì có tiếng gõ cửa. Má tôi lật đật bảo chúng tôi nằm sát vào tận cùng hầm cát, rồi leo lên mở cửa. Hình như chỉ có một người và má tôi chào hỏi, giọng hơi vui mừng:

"Ủa, cậu đó hả? Cậu về khi mô?"

Tôi hồi hộp chờ đợi giọng trả lời:

"Dạ, cháu về cùng với anh em ở khu vực nội thành ni mà."

Tôi không nghe má tôi hỏi gì nữa. Im lặng một lát, giọng trẻ lại hỏi:

"Bác đã đào hầm chắc chắn chưa? Phải trường kỳ chống đỡ lâu đó bác. Tình hình coi bộ mệt rồi."

"Dạ."

"Trời, bác làm cháu dị quá. Cháu vẫn là thằng Ðắc như hồi trước mà bác. À, Khâm mô rồi?"

Má tôi giả vờ sụt sùi:

"Khổ lắm anh ơi. Nó đi từ hôm mồng một, về dưới quê ở Bao Vinh rồi có thấy tăm hơi nó nữa mô. Tui đang lo quá, sợ nó nóng ruột đi trở lên tìm dọc đường bị bắt bớ cũng nên. Tui chỉ có mình nó, anh biết đó, nếu nó mệnh hệ nào thì tui sống không nổi..."

Ðúng là Ðắc rồi. Tôi muốn lên hầm để gặp bạn, nhưng Hường đã nắm chặt tôi lại:

"Ðừng anh, anh điên đó hả?"

Giọng Ðắc:

"Bác đừng có lo. Ai có tội phải đền. Khâm với cháu vẫn là tình bạn..."

"Anh thương thì tui biết vậy, nhưng giữa đường giữa sá, nó đâu có gặp anh..."

Ðắc có vẻ trầm ngâm một lát, giọng hơi bớt tin tưởng:

"Chết có số mà bác. Cháu có số chết thì đã chết từ lâu rồi. Bác đừng gọi cháu bằng anh nữa, cháu buồn lắm. À, bác, nghe thằng Tịnh nó sang đây hả bác?"

Tôi giật mình. Tịnh nằm bên tôi mà run lập cập. May má tôi đỡ lời:

"Nó có sang rồi đi rồi. Nó đi họp rồi có về mô nữa."

"Ủa, vậy ai giữ nó. Ðược, để cháu hỏi rồi thả nó về. Cháu vừa gặp thằng Ðịnh anh nó. Thằng Ðịnh phải đi học tập, chắc người ta sẽ đưa nó sang bên kia Gia Hội hoặc xuống dưới bãi dâu."

"Ði chi mà xa rứa."

Ðắc không trả lời má tôi mà hỏi:

"Hường mô rồi bác?"

Má tôi không dám dấu:

"Em nó sợ quá suốt ngày chui trong hầm hoặc trốn dưới gầm giường, con nớ nó sợ súng đạn bất thần."

"Bác gọi Hường lên đi, cháu chớ ai mô mà sợ."

Sợ Ðắc xuống hầm, Hường vội vã bò lên khỏi miệng hầm. Tôi nghe tiếng Ðắc cười lớn:

"Bộ Hường tưởng tui lên núi rồi về thành cọp ăn thịt người răng mà nghe tiếng tui sợ dữ rứa?"

Hường cố gượng cười khổ sở:

"Em mô có sợ anh, nhưng mấy hôm ni em sợ chết quá."

Ðắc ngồi nói chuyện với má và em gái tôi rất lâu. Ðắc kể cho má tôi và Hường nghe những nỗi cực khổ trước khi lên núi. Ðắc nói nửa khôi hài, nửa mỉa mai:

"Hồi cháu chỉ tranh đấu mà bị bắt, bị đánh đập quá sức tưởng tượng. Bác biết không, chúng nó đập nát cả hai bàn tay của cháu. Người cháu còn đầy thẹo, cháu chết đi sống lại. Ân đền oán trả chớ bác. Cháu lên núi tầm sư học đạo, nay thành tài trở về cho chúng biết mặt. Cháu không muốn hại ai, nhưng nợ máu phải trả chớ bác."

Không biết khuôn mặt má tôi ra sao mà Ðắc lại cười:

"Nói có rứa mà bác tái mét mặt. Ðùa cho vui chứ cháu cũng bị ép buộc quá phải lên núi. Cháu đi mô cũng không dứt được Huế. Cháu còn căm lắm bác ơi."

Vừa lúc đó có tiếng chân nhiều người đi vào. Tôi nghe nhiều tiếng nói chuyện và chính Ðắc kể lại vụ vừa bắt người ở mấy nhà bên cạnh. Có giọng lè nhè:

"Thằng cha trốn tài thiệt, không có đồng chí Ðắc thì biết đâu mà kiếm cho ra."

Một giọng khác cười:

"Tôi biết nó trốn dưới nệm giường. Thằng cha đó trong xóm ni ai mà lạ cái mặt hắn nữa chớ."

Có lẽ một nhóm cán bộ nằm vùng. Họ nói chuyện lớn tiếng và cười đùa vui vẻ. Tịnh hích vào tay tôi định nói, nhưng tôi bịt miệng nó lại. Tôi sợ ở trên miệng hầm họ nghe tiếng. Hường lại hỏi về Ngọc và Phủ. Ðắc trả lời:

"Có về hết. Phủ với Ngọc ở ngoài Gia Hội."

"Em không nghe ai nói gặp hai anh nớ hết."

"Hường thì có đi mô mà nghe, mà thấy. Con gái chi mà nhát quá trời."

Rồi Ðắc nói với má tôi:

"Tiếc thằng Khâm nó kẹt dưới quê, có nó, cháu bắt nó đi làm việc với cháu." Rồi Ðắc chợt ngẫm nghĩ, "Nhưng chắc cháu cũng không ép nó mô. Khi bác gặp nó, bác nói là cháu với nó khi mô cũng là bạn."

Ðắc ở lại nói chuyện lâu lắm. Ðắc hỏi má tôi nhà còn đủ gạo ăn không. Rồi Ðắc hứa sẽ đem gạo tới tiếp tế cho cả nhà. Thấy Ðắc vui vẻ, má tôi và Hường có vẻ bớt sợ hãi. Má tôi hỏi thăm tình hình, ban đầu giọng Ðắc có vẻ khả quan, nhưng về sau sự tin tưởng cũng có vẻ giảm sút. Ðắc dặn dò nên làm hầm cẩn thận, xóm ngoài và xóm trong đã có nhiều nhà trúng đại bác. Ðắc còn cho biết quân Mỹ đã tiến vào quốc lộ 1, ban ngày đã lên tới An Cựu. Nhưng Phủ Cam, Từ Ðàm, Bến Ngự vẫn còn là khu vực của quân giải phóng. Má tôi không dằn được than thở: Chắc dân chúng chết nhiều lắm. Tôi không nghe Ðắc trả lời câu đó, và tiếng cười vui cũng im bặt một lúc lâu.

Trước khi về, Ðắc còn hứa là sẽ trở lại thăm. Ðắc dặn dò Hường một vài điều nào đó mà tôi nghe không rõ. Chỉ có tiếng Hường dạ nhịp. Ðắc và mấy người giải phóng, cán bộ vừa ra khỏi nhà một lúc thì tiếng đại bác lại tiếp tục. Má tôi, Hường lại chui xuống hầm. Hường kể lại chuyện vừa gặp Ðắc mặc dù tôi đã nghe gần hết. Hường nói trong số tới nhà, có một người còn trẻ, đeo gương cận, chắc cũng cán bộ nằm vùng. Má tôi dặn tôi phải cẩn thận vì Ðắc hẹn sẽ trở lại. Bà nhắc tới chuyện Ðắc hứa là sẽ tiếp tế gạo và bảo Hường nếu cần gì thì cứ tìm Ðắc tới. Tôi nghe và thấy cảm động. Thật ra không chủ nghĩa nào, không lý tưởng nào chia rẽ tình người, tình bạn được. Tôi nghĩ vậy cũng quá nông cạn chăng. Nhưng mấy ngày hôm sau thì Ðắc không có thì giờ tới thăm chúng tôi nữa, mặc dù tôi biết nhiều lần Ðắc vẫn đi ngang qua nhà.

Một lần tiếng đại bác vừa ngớt, tiếng súng lớn nhỏ bên ngoài thành cũng đã đến lúc nghỉ xả hơi, tôi bỗng nghe tiếng quát tháo ở ngoài đường. Em gái tôi đã dạn lắm, nó dám bò lên hé cửa nhìn ra đường coi. Tôi nghe tiếng quen quen và nhận ra tiếng của Ðắc. Hường ló đầu xuống hầm nói nhỏ:

"Chết cha. Anh Ðắc bắt gặp anh Tý rồi."

Tôi chưa kịp hỏi thêm thì Hường đã trở lên, tiếp tục lén nhìn ra đường. Giọng của Ðắc vang từ phía ngoài:

"Các đồng chí để tôi xử tên này. Ðể tôi quyền ưu tiên. Trước kia nó làm chúng tôi khổ sở điêu đứng bao phen. Nó phải trả tội ác."

Giọng Tý rên rỉ:

"Lạy anh tha cho em. Chừ em cũng theo giải phóng rồi. Em đeo băng đây anh nì, anh, em đeo băng nì. Mấy ngày hôm ni em hoạt động cho giải phóng, em điểm chỉ bắt nhiều tên Mỹ ngụy rồi. Em xin lấy công chuộc tội."

Ðắc cười gằn, giọng cay độc:

"Mày mà cũng biết ăn năn. Không, tao phải xử mày. Mày xuống đứng dưới cái hố tao hỏi tội."

Có tiếng xô đẩy rồi tiếng kêu thét của Tý:

"Ối, lạy anh, xin anh tha cho em."

"Tha cho mày. Hồi trước tao đã lấy tình bạn xử với mày mà mày có tha cho tao mô. Tao bị bắt, bị tù tội, bị đánh đập." Ðắc cười gằn, khôi hài thêm: "Hừ, tao lên núi tầm sư học đạo về đây, chuyến ni mi đừng có hòng."

Giọng Tý như đang khóc:

"Em lạy anh, tha cho em. Em lạy anh, em biết lỗi rồi. Bởi rứa em theo giải phóng ngay từ đầu."

"Mày có tài theo mau lắm. Vì rứa tao mới bị đánh đập giam cầm. Mày đứng xuống hố cong lưng xuống, nghe tao hỏi đây."

"Ý, lạy anh, đừng bắn em chết. Em, em... ý trời, anh... anh..."

Ðắc bật cười ròn rã:

"Bắn mày? Không, mày đâu có được chết mau lẹ rứa. Mày phải chết dần chết mòn, chết đau đớn khổ sở. Trong đời tao, tao đã bị oan ức, chứ tao không muốn xử oan ức ai hết."

Tôi rùng mình. Giọng Ðắc hằn học, quyết liệt lắm rồi. Tôi nghe một giọng người nào đó nói:

"Thôi đồng chí, nó đã ăn năn tội lỗi, đã về với giải phóng với nhân dân. Ðồng chí nên..."

"Nên gác lại hận thù riêng? Không, hận thù riêng của tôi cũng là hận thù chung của bè bạn tôi nữa. Các đồng chí xin đừng xía vô trường hợp này, xin đồng chí. Chỉ xin các đồng chí trường hợp này mà thôi."

Giọng Ðắc đột nhiên quát lớn:

"Ðứng yên đó. Tao chưa bắn đâu, đừng hòng."

"Lạy anh, thôi, thà anh bắn em chết đi, cho em bớt khổ sở."

"Không."

Giọng Tý kêu lớn như gào bể cổ họng:

"Em lạy anh, em lạy anh..."

Tiếng Ðắc cười ran. Tiếng cười đầy uất hận xói vào đầu tôi làm tôi choáng váng. Rồi một tiếng súng nổ. Một tiếng thét lớn. Xong rồi. Nhưng không, một tiếng nổ nữa, một tiếng thét nữa. Cứ tiếp tục như thế. Tôi mấy lần thót cả tim, rồi thở phào nhẹ nhõm cho kẻ bị tội. Chết là hết. Nhưng lạ chưa, mỗi tiếng súng là mỗi tiếng thét, thêm một tràng cười điên dại của Ðắc.

Tiếng súng ngừng hẳn sau một tiếng kêu hãi hùng của Tý. Lần này thì tôi yên tâm cho Tý rồi.

Bây giờ tiếng súng ở đâu ngoài thành, xa hơn nữa, hình như ở phía chợ, phía cầu Tràng Tiền chi đó lại nổ nữa, rồi tiếng đại bác. Má tôi gọi Hường mau vô hầm. Nhưng Hường như còn hãi hùng với cảnh đã chứng kiến, nó đứng sững ở cánh cửa hé mở. Má tôi phải chạy ra lôi nó vào hầm. Tôi hỏi mày thấy gì. Nó cà lăm, cà cặp, run rẩy mãi mới kể lại cho tôi nghe lại cảnh đã chứng kiến. Ðắc đã tìm gặp được Tý. Hắn bắt Tý đứng dưới một hố cá nhân rồi bắt đầu hỏi tội và hành hạ. Ðắc xin các đồng chí giải phóng có mặt ở đó được giải quyết mối thù riêng và các đồng chí giải phóng đã không ai can thiệp. Tý đứng dưới hố, cứ mỗi lúc Ðắc đưa súng lên nhắm vào trán Tý mà bóp cò, Tý lại nhắm mắt, khuôn mặt lạnh lùng chờ đợi. Nhưng rồi phát súng chờ đợi không nổ. Ðến khi phát súng chờ đợi nổ thì Tý vẫn không chết. Mỗi phát đạn cứ lướt qua màng tang, qua đầu, qua bên vai và mỗi lần như thế Tý cứ tưởng là đã lưu lại thế gian tiếng thét cuối cùng của nó. Sau đó, Ðắc kéo Tý lên rồi dẫn đi.

Chiếc hố bỏ trống đó, mấy ngày sau, Hường kể cho tôi nghe, có một người lính giải phóng chết gục trong đó, đầu kê lên miệng hố và mặt quay vào phía nhà tôi. Tôi đoán chắc trước khi chết, anh còn kịp nhìn thấy những bông mai vàng trong sân và một phần mái nhà bị sập đổ vì mảnh đạn hay những phát B40 của đêm đầu tiên khai hỏa.

Tôi không còn nhớ những ngày sau đó là mồng mấy hay mười mấy nữa. Mặt trận đã lan tới nội thành rồi. Tiếng đại bác ngày đêm rơi không ngớt. Bờ thành sập nhiều chỗ. Người ta đồn cửa Ðông Ba, cửa Thượng Tứ, cửa Sập đều bị bắn đổ xuống, chắn hết lối ra vào. Mấy ngày đầu chúng tôi còn ra khỏi hầm nấu ăn được. Nhưng mấy hôm sau, tiếng đại bác rơi không ngớt, rồi tiếng súng bắn ra ngoài thành như mưa. Má tôi và Hường phải kéo bao gạo xuống hầm và chúng tôi nhai gạo sống cho đỡ đói. Nhai gạo sống, uống nước lạnh, trời lại rét như cắt ruột gan, hơi đất thấm vào người, cả nhà bị đau bụng. Chúng tôi phải canh chừng tiếng đại bác, leo lên hầm tiểu tiện ngay ra nhà. Ðôi lúc đang nửa chừng, nghe đánh ình một tiếng, không chạy mà cũng tự động rơi tọt xuống hầm như bị ai nắm quăng xuống hố.

Cứ sống như thế mấy hôm, người chúng tôi xanh lướt. Hường không chịu nổi nữa, nó khóc rấm rứt suốt ngày. Vậy mà đâu được yên thân. Mặc tiếng đạn đại bác, mặc máy bay, các anh lính giải phóng vẫn tìm cách tới trước cửa từng nhà, kêu gọi đồng bào góp sức chiến đấu với mặt trận. Khẩu hiệu là: Không dung giặc Mỹ, không chứa chấp Việt gian, không sờn lòng trước áp lực súng đạn. Nếu cần, tất cả đồng bào lớn bé tràn ra hết ngoài đường chiến đấu với Mỹ ngụy.

Mỗi lần nghe như thế, chúng tôi run như cầy sấy. Những người chung quanh chết mỗi ngày mỗi nhiều. Ngay ở đàng sau vườn nhà chúng tôi, có ba bốn xác chết bỏ lại, không biết dân hay giải phóng. Ban đêm, đôi khi chúng tôi nghe tiếng la thét ở đàng sau vườn. Hoặc họ bắt người dẫn ngang qua nhà, tiếng van lạy kêu khóc đến não người.

Một ngày nữa trôi qua, chúng tôi vẫn còn sống. Nhưng ngôi nhà bên cạnh bị một quả đại bác câu tới tan tành. Nhà sát đó bị miểng rơi tung cả mái tôn và chiếc hầm đang ở trong nhà thành hầm lộ thiên. Ánh sáng chiếu vào hầm làm mọi người sợ hãi. Vậy là họ liều chết chạy ra đường, sang nhà tôi xin trú ngụ.

Mặc dù chật chội, hôi hám hơn, nhưng sự có mặt của nhiều người làm chúng tôi yên lòng hơn. Những người mới tới cho biết đã có nhiều đoàn người tản cư ra ngoài bờ sông, mặt Gia Hội. Nhưng Hường quả quyết rằng, chính Ðắc nói trường Gia Hội là nơi trú đóng của bộ chỉ huy Việt cộng, nơi đó còn dùng để làm tòa án nhân dân nữa. Tôi can má tôi. Tản cư ra đó, khác nào đút đầu vào miệng cọp.

Chỉ có một tạ gạo mà thêm bao miệng người ăn, chúng tôi phải ăn cầm chừng. May gia đình tản cư tới không có trẻ con, nên nhịn đói nhịn khát được. Mỗi sáng chúng tôi nhai một nắm gạo, trưa một nắm, chiều một nắm.

Chỉ có vậy mà bao gạo vơi đi một cách đáng sợ. Có lẽ hết bao gạo này, chúng tôi chưa chết vì bom đạn thì cũng chết vì đói khát. Mỗi ngày mọi người nhìn nhau, thở dài hoặc ứa nước mắt. Không ai còn đủ sức bàn vô tán ra nữa.

Một buổi trưa, mọi người đang ngồi trong hầm nhai gạo sống thì có tiếng xô cửa rồi tiếng gọi:

"Mợ ơi, mợ ơi."

Má tôi nghe và nhận ra tiếng đứa cháu trai ở đường Mai Thúc Loan. Bà mừng rú lên:

"Ðây nì, dưới hầm nì con ơi, xuống mau."

Một cái đầu ló vào. Thằng Tam. Nó run lập cập, mặt mày tái mét. Má tôi kéo nó sát vào người:

"Mạ với ba mô rồi. Răng đi một mình?"

Tam òa khóc:

"Mạ chết khi chạy ra đường với cháu rồi. Mạ biểu cháu cứ chạy đi, mạ hoa tay trợn mắt. Cháu không chịu đi. Khi mạ chết cháu mới đi."

Mạ tôi khóc òa:

"Trời đất ơi. Còn ba mô? Ba mô nói cho mợ biết."

"Ba bị bắt đi rồi. Ba bị bắt trói dẫn đi cùng với nhiều người khác nữa. Nghe nói bị đưa lên cửa thành cho đại bác bắn xuống. Mợ ơi, mợ ơi..."

Tam khóc ngất. Má tôi cũng khóc ngất. Tôi nổi gai ốc đầy người. Tại sao lại đưa dân lên cửa thành cho máy bay bắn xuống chết. Những người này có tội tình gì? Lại mấy thằng cha cán bộ địa phương tư thù tư oán đây mà. Chòm xóm láng giềng mà giết nhau đây mà. Tôi giận căm gan, muốn hét lớn một tiếng cho đỡ tức. Tam vẫn nức nở:

"Họ ác lắm mợ ơi, họ bắt mấy người tình nghi đem lên thành trói lại cho máy bay Mỹ tưởng là Việt cộng bắn xuống. Hôm qua mười mấy người, hôm ni mấy chục người. Chắc có ba cháu rồi."

Má tôi đập tay đập chân. Giọng Hường yếu ớt:

"Khóc mần chi má. Trước sau cũng chết. Thà chết trước còn sướng hơn. Con muốn chạy ra đường cho máy bay bắn chết cho rồi. Sống như ri khác chi chết đày chết đọa."

Có tiếng súng nhỏ nổ ran trước mặt đường. Má tôi và Tam ngừng bặt tiếng khóc. Hình như quân giải phóng dẫn một đoàn tội nhân đi qua. Có tiếng kêu khóc, có tiếng la lớn. Má tôi ôm lấy ngực. Con Hường há hốc mồm rồi ngã vật xuống đất. Tôi sờ tay nó thấy lạnh ngắt. May người hàng xóm tới ở nhờ có chai dầu xoa khắp người Hường. Một lát sau nó hơi tỉnh, rên rỉ:

"Ghê quá mạ ơi. Ghê quá anh ơi..."

Rồi nó khóc. Hình như nó đang khóc trong cơn mê sảng. Tôi cầm chặt tay em gái. Tội nghiệp cho nó. Nó ăn gạo sống lâu ngày không chịu nổi, cái bụng căng phình như bị báng. Miệng nó trào bọt mép. Một lúc sau nó tỉnh hẳn. Nó ôm chặt má tôi:

"Con không chịu được nữa. Chắc con chết."

Giữa cơn bom đạn như mưa bên ngoài, má tôi vừa khóc vừa bò lên khỏi miệng hầm. Bà lục lọi gì lâu lắm. Tôi sốt ruột cứ thò đầu lên gọi:

"Má, má xuống hầm liền đi."

Mãi má tôi mới xuống. Trên tay bà cầm đòn bánh tét mốc meo. Bà lột lớp lá và đưa cho Hường, lúc đó đang nằm bẹp xuống đất mà thở như sắp đứt.

Bắt đầu từ đó, hết đêm kinh hoàng này nối tới ngày kinh hoàng khác.

Tôi không tài nào ngủ được. Không còn một ai dám lên miệng hầm nữa. Thức ăn cạn dần.

Bao gạo gần hết mà chúng tôi lại thêm một miệng ăn. Tam kẹt lại luôn. Không dám một mình trở về nhà nữa.

Hường bịnh nặng, nằm rẹp một chỗ. Má tôi cứ ngóng bước chân đi trên mặt đất, hy vọng Ðắc trở lại. Nếu Ðắc còn trở lại, chúng tôi còn nhờ vả được. Một buổi chiều, chúng tôi nghe tiếng chân đi nhẹ vào nhà, rồi tiếng người ngã phịch xuống. Một lát sau nhiều tiếng chân khác đuổi tới. Một tiếng súng nổ. Một tiếng kêu thét lên. Nhiều tiếng lao xao nói cười: Có chạy đằng trời. Một giọng khác có vẻ ngạc nhiên: Nhà ni chắc không có người ở. Có hầm, chắc họ ở dưới hầm. "Lục soát coi, đôi khi ngụy quân trốn trong đó." "Ôi cứt đái tùm lum, chắc chẳng có ai. Thúi quá, đi ra." Tiếng chân xa dần. Má tôi mừng rỡ tới ứa nước mắt. Ðống phân rác dơ dáy bừa bãi giữa nhà đã cứu chúng tôi. Má tôi hít một hơi dài, gật đầu: Bây giờ mới thấy quý đống phân. Tôi cũng vậy, không còn ghê sợ mùi hôi thối xông xuống nữa.

Chắc họ đi, bỏ lại một xác chết ngay giữa nhà chúng tôi nữa. Tôi thắc mắc không biết xác của ai. Tôi nghĩ tới Tý. Cũng không có thể là Tý. Ðắc đã bắt đi, không dễ dàng gì cho hắn trả nợ nhẹ nhàng thế. Nhưng tôi chỉ thắc mắc một chút rồi thôi, nỗi lo sợ nhất của tôi là vài hôm nữa xác chết sẽ sình thúi, và chắc chắn mùi xác chết trộn với phân người sẽ không dễ ngửi như mùi tôi đang ngửi.

Rồi bao gạo cạn dần, cạn cho tới đáy. Buổi sáng hôm đó, má tôi báo động hết thức ăn. Gia đình tới tạm trú có vẻ băn khoăn vì họ cho là có trách nhiệm trong vụ đói khát cận kề. Nhưng dù không có họ thì gạo cũng sẽ hết và chúng tôi cũng sẽ chết đói. Hết nhanh hay cầm cự thêm hai ba hôm nữa cũng thế thôi. Má tôi khóc:

"Khổ chưa nì, không chết bom đạn mà chết đói mới khổ thân chớ."

Rồi bà ôm Hường khóc vùi.

Sau đó chúng tôi nhai những hạt gạo cuối cùng một cách thận trọng như sợ một vài hạt sẽ rơi vãi mà không có cách gì tìm thấy lại được.

Gia đình hàng xóm nhất định nhịn, nhưng má tôi vẫn chia: Ôi, có chết thì cùng chết. Ăn đi rồi chết. Mọi người khóc lóc, nhưng không ai dám khóc to, sợ có người nào trên mặt đất nghe thấy.

Hình như nhiều căn nhà chung quanh chúng tôi đã sập đổ. Nhiều tiếng nổ thật lớn làm dội tức cả ngực. Ðôi khi chúng tôi tưởng như tiếng nổ đã cày xới mất căn nhà ở và nhắm mắt chờ chết, một lúc sau những tiếng nổ dịu bớt, chúng tôi mới biết là mình vẫn chưa hề hấn gì.

Tiếng súng lẻ nổ đã gần hơn, hình như đã cận kề ở miệt phố. Tôi bỗng nẩy ra một ý định:

"Má, mình đi trốn đi, ở đây chắc thế nào cũng chết."

"Tao không còn biết chi nữa. Tùy mày định liệu đó."


Chúng tôi lại nhịn đói thêm hai ngày nữa. Hường mệt lả. Hai gia đình chúng tôi bàn soạn việc đi trốn. Tam cố bò lên miệng hầm, mặc tiếng súng đạn, hắn lần ra cửa xem xét ngoài đường. Một lúc sau, hắn chui xuống hầm, giọng có vẻ mừng rỡ:

"Ngoài đường người ta đi đông lắm. Lâu lâu lại có một tốp người chạy về phía cổng thành."

Má tôi bật dậy:

"Mình đi theo họ."

Nhưng Tam gạt đi:

"Không, chỉ đàn bà và người già. Không thấy đàn ông. Ðàn ông họ đi đâu hết rồi."

Má tôi bàn việc giả dạng. Mấy người đàn bà bế Hường chạy trước, còn tôi giả mặc quần áo đàn bà, đội khăn đi theo sau. Tôi hỏi:

"Còn Tam làm răng. Vô lý cũng giả dạng nữa."

Tam buồn rầu:

"Sống chết có số mạng. Anh cứ lo phần anh."

Ngay xế trưa hôm đó, chúng tôi bồng bế, dìu dắt nhau lên khỏi miệng hầm. Vật đập ngay vào mắt tôi là xác một người đàn ông sình to nằm sấp, máu me đã đặc khô lại. Hai tay hắn dang ra như ôm mặt đất. Chúng tôi không nhìn rõ mặt hắn. Tam bận rộn việc hóa trang cho tôi. Tôi mặc quần áo của Hường, đầu trùm khăn kín mít. Má tôi thu xếp một ít thứ lặt vặt gói vào một cái bọc rồi giục giã mọi người ra đường.

Cánh cửa bật mở. Tôi chói mắt lảo đảo muốn té. Khi quen với ánh sáng rồi tôi mới nhận ra mọi cảnh vật đổi thay. Không còn một hình dạng cũ nào được giữ lại. Lạ lùng, căn nhà của tôi chưa trúng đại bác vẫn trơ vơ giữa những khu vườn xơ xác, những ngôi nhà đã tan thành đống gạch vụn. Ðâu cũng có người chết, trong sân, đầu ngõ, ngoài đường. Những vũng máu đã khô hoặc còn mới. Tiếng đại bác vẫn câu đều đều từ phía trong thành nội, những tốp người tiếp tục chạy ra. Họ vừa chạy vừa la khóc rền trời. Không ai hỏi ai, không ai nhìn ai.

Ngay giữa đường, hai bên đường, những miệng hố lớn do người đào, do bom đạn đào cũng có. Vừa chạy tới đường Mai Thúc Loan thì một loạt súng nhỏ ngoài thành bắn vào như mưa. Ðoàn người chạy đằng trước có vài người ngã xuống. Tức thì họ quay đầu trở lại, một đàn ong tan bầy. Tôi vội kéo mọi người chạy trốn vào một căn nhà đổ nát ngay lề đường. Nhà đã sập, chỉ còn mấy bức tường trơ vơ. Chúng tôi chui vào đàng sau bức tường, leo qua đống gạch lớn. Nhà này có một cái hầm cát nhưng hầm cũng bị trúng đại bác tan tành, bao cát vỡ tứ tung, các cây gỗ gẫy văng la liệt. Và giữa những bao cát bị đào lên, giữa những thanh gỗ lớn, xác một người Mỹ nằm sấp, mặt nhìn ra ngoài đường. Tay anh ta đưa ra trước mặt và nắm chặt lại. Tôi tò mò nhìn kỹ, thì ra đó là một bức ảnh nhỏ in hình một người đàn bà tây phương đang áp má bên một đứa bé gái bụ mẫm. Cả hai mẹ con cùng cười, tươi thắm giữa vườn cây trái tươi tốt. Người Mỹ còn trẻ lắm, anh ta chưa tới ba mươi tuổi, mái tóc vàng hoe dính bê bết máu. Xung quanh xác chết của anh ta, chiếc ví da xổ tung, giấy tờ, thư từ rơi vung vãi cùng chiếc bật lửa và những giây đạn còn mới nguyên, bị đứt ra từng đoạn. Tam tò mò hơn, nó nhìn sát vào tay người Mỹ và đọc được giòng chữ nhỏ đằng sau bức ảnh. Hắn lẩm nhẩm: Lạy Chúa, cho con gửi lời cầu xin năm mới sang Việt Nam cho chồng con. Chiến tranh chấm dứt và gia đình đoàn tụ. Lẫn trong đống thư từ rơi vãi, Tam lượm được một chiếc ảnh nữa, cũng người đàn bà, gần như không có mảnh vải che thân đang nằm sấp trên chiếc giường rộng trống trải với một lời đề đằng sau, tả nỗi nhớ chồng thê thiết.

Không biết ngày thứ mười mấy hay hai mươi mấy mà người Mỹ đã vào được tới đây. Có lẽ họ đã đến và bị đẩy lui. May mà chúng tôi đã tìm ra tới được đây. Khi chúng tôi ra tới đường, hình như nơi con đường chúng tôi ở không còn một gia đình nào nữa. Họ đã chết hoặc đi từ lâu rồi. Hường ngồi ủ rũ dựa lưng vào đống gạch, nó giơ tay che mắt không dám nhìn xác chết.

Người đàn bà lớn tuổi nhất ở nhà hàng xóm trú ngụ nhà tôi bò ra ngoài nhìn rồi ngoắc chúng tôi:

"Ngoài đường có người đi rồi. Ði đi thôi."

Chúng tôi lại dắt dìu bồng bề nhau đi. Nhưng cứ một đoạn, chúng tôi lại chạy ào tìm chỗ tránh đạn hoặc nằm mọp xuống đất khi nghe trên đầu có tiếng rạt rạt. Mỗi lần có tiếng rạt rạt trên đầu là có tiếng nổ của đại bác. Ðằng trước chúng tôi có người trúng đạn, đằng sau chúng tôi có người trúng đạn. Ðoàn người chạy loạn bỗng dưng tụ tập hết gần nơi cửa thành. Người tôi run lên. Họ kiểm soát chắc. Chúng tôi đến gần. Có một toán quân giải phóng đang ngồi ở đó. Họ không ngăn chận nhưng đoàn người tự động dừng lại trước những mũi súng gờm gờm như sẵn sàng nhả đạn. Tôi kéo vuông khăn che đầu tóc, che mặt cho thấp xuống.

Má tôi vội nhét vào túi áo trong của tôi một gói tiền nhỏ rồi bà bế xốc Hường lên.

"Ðàn bà được đi qua. Ðàn ông thanh niên đi trở lại."

Một giọng cứng rắn từ trong toán giải phóng đang ngồi dựa lưng bên cửa ra lệnh. Tam tái mặt, nó cố lẩn trong đám đàn bà trẻ nít. Tôi nín thở đi qua. Mấy đôi mắt gườm gườm nhìn thẳng vào mặt. Bỗng có tiếng nói:

"Anh kia đứng lại."

Tôi giật thót cả người, không dám nhìn lại. Họ nói tôi hay nói ai. Nhưng tay ai đã đẩy lưng tôi đi thẳng tới phía trước. Tiếng Hường rên rỉ như đau đớn lắm. Tôi biết một phần nó đau đớn thật và một phần nó làm bộ kêu la. Bỗng Tam vùng chạy về phía trước. Một tràng súng đuổi theo nhưng hình như súng chỉ bắn lên trời. Ðoàn người tràn ra cửa thành đông quá. Tam nhờ đó cứ vừa lách vừa chạy. Nghe tiếng súng, ở bên ngoài có tiếng súng đáp trả. Hai bên lại bắn nhau loạn xạ. Chúng tôi lạc bầy nhau chạy bán sống bán chết. Một tràng đạn réo bên tai. Tôi vội nằm xuống đất, và khi đứng dậy được thì má tôi, em tôi, Tam và những người hàng xóm đã chạy lạc đâu mất rồi. Tôi chết điếng người, má tôi, em tôi, có mặt trong đoàn người chạy phân tán các ngả hay đã nằm trong đống xác vừa mới ngã đằng sau lưng đang còn nóng hổi, tràn trề sự sống kia? Tôi muốn quay lại nhưng không được nữa. Súng đạn xô tôi chạy mãi về phía trước. Tôi đã ra tới phố Phan Bội Châu.

Lúc nãy, rõ ràng tôi nghe nhiều tiếng súng bắn vào cửa Ðông Ba, và quân Việt cộng bên trong bắn trả lại. Nhưng ra tới đây, sao tôi không thấy bóng một người nào hết. Chỉ có những xác chết. Xác Việt cộng chết từ lâu hoặc còn tươi, xác dân chúng đi tản cư. Tôi nhìn thấy nhiều cảnh thương tâm lắm. Những chị đàn bà chết trong tay còn ôm chặt con. Những người đàn bà bụng chửa chết lòi con ra ngoài. Thấy chạy ở ngoài đường nguy hiểm quá, tôi xô cửa vào một căn phố gần đó.

Căn phố bỏ trống. Tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy những lỗ hổng lớn đục nơi bức tường cứ tiếp tục thông từ nhà này sang nhà khác. Tôi nghĩ là Việt cộng họ dùng lối này để di chuyển chăng. Nhưng tôi không dám mạo hiểm leo sang những căn nhà khác. Căn phố này chưa sập đổ hoàn toàn, nhưng tôi kiếm hoài không ra được một chút thức ăn nào hết. Cực chẳng đã tôi phải tìm sang nhà khác, kiếm bất cứ cái gì ăn cho đỡ đói. Khi tôi nhặt được một túi bánh mì khô bên cạnh xác một em bé chết đã lâu mặt mũi sình thối, thì tôi cũng bị trúng một viên đạn vào tay. Tôi tự băng bó bằng áo của em bé đã chết, và viên đạn đến bây giờ vẫn còn mắc cứng trong thịt, có lẽ tôi đau nhức hơn cả là vì vết thương này.

Tôi không hiểu làm thế nào mà tôi còn sống sót được khi chạy tới bờ sông. Tôi không biết, không nhớ rõ khúc sông nào. Lúc nhìn thấy mặt nước, tôi khát cháy cổ họng, người khô quắt không còn một giọt mồ hôi. Sau lưng tôi, trên đầu tôi, tiếng súng nổ. Tôi bỗng cảm thấy đau nhức khắp người và hình như máu trong người tôi đang chảy ra như suối. Mặc, giòng sông xanh trước mặt êm ả quá, màu xanh ban đầu làm mắt tôi dịu lại, rồi tất cả giòng sông chụp lấy tôi, nhận chìm tôi xuống. Tôi đã lết tới sát bờ sông, tôi vục cả mặt mình xuống, trườn cả người xuống, giòng nước mát lạnh như muốn đóng tôi thành một tảng băng. Rồi có tiếng la chới với: Cứu người ta với, cứu người ta với. Tôi bị nhấc bổng lên một con thuyền, và tôi thiếp đi.

Khi tôi tỉnh dậy thì thuyền đã qua sông. Tôi bị mấy vết thương khá nặng. Có bao nhiêu tiền, tôi dốc cho người lái đò đã cứu sống tôi hết. Tôi từ giã người lái đò rồi cố gắng vừa bò vừa lết lên đường.

Hình như tôi bò ngang qua nhiều xác chết lắm. Tôi đến được trường Kiểu Mẫu. Ở đây, người ta tị nạn đông lắm, đông đến nỗi tôi không còn có chỗ nằm. Tôi được băng bó sơ sài, được ăn uống. Người ta khuyên tôi nên đi về phía An Cựu, ở đó đã yên, may gặp quân đội, họ chở về Phú Bài mới có thuốc thang băng bó. Tôi đã đi qua bao nhiêu con đường nhỏ, tôi có ngang qua bưu điện nữa thì phải, cứ ở chỗ này có tiếng súng, tôi bò tránh sang chỗ khác. Nơi bưu điện, tôi thấy có mấy xác Việt cộng bị xích chân nơi khẩu đại liên. Họ đã chết. Một nơi khác tôi cũng thấy tương tự như thế. Khi tới cầu An Cựu, tôi thấy có lính mình và người Mỹ. Tôi chưa kịp đi tới thì xẩy ra tiếng súng, tôi vội lết vào con đường nhỏ để tránh đạn. Khi đi qua đoạn đường hồi nãy anh cứu tôi, tôi bị một phát súng trong vườn bắn ra. Tôi ngã ngay xuống đất. Dù vậy, tôi cũng cố lết tới cái hố bom để tránh đạn lạc. Khi ở trường Kiểu Mẫu, tôi thấy có nhiều ngôi mộ mới. Người ta nói: mỗi ngày có mấy người chết. Hoặc bị thương từ trước, hoặc trúng bom. Tôi tưởng qua tới đây thì có thể về Phú Bài được. Nhưng giờ thì tôi hết hy vọng rồi. Tôi không hiểu sao tôi còn tỉnh táo tới phút này để kể cho anh, cho chị nghe chuyện của tôi được. Có lẽ máy bay đã xa rồi.

Thôi anh chị để mặc tôi, chạy đi, không họ tràn tới bây giờ. Xin dựng tôi nơi cánh cửa, không, nơi cái cột kia cũng được. Tôi còn nhìn thấy mưa, thấy cỏ cây. Bụi cây trước mặt chưa có một vết đạn nào tới phá, mưa gội sạch hết để tôi nhìn...

Thái dựng người thanh niên nơi chiếc cột ngó ra góc vườn. Ở đó có một chậu cây. Mấy chậu hoa thược dược trắng và tím vẫn nở. Xa hơn là một bụi cây lớn đang nằm nghe mưa vỗ về. Có lẽ máy bay sẽ trở lại thật. Thái ngỏ ý muốn đi và đem người thanh niên theo, nhưng anh ta mỉm cười lắc đầu. Tay anh bắt đầu run, môi anh ta tím bầm lại và đôi mắt chớp nhanh như muốn thu hút hết bầu trời và cảnh vật trước mắt. Ðôi mắt dại dần như có một cái màn mỏng kéo tràn qua. Thái cầm chặt tay anh ta. Nơi khóe mắt sắp tàn lụi bỗng rỏ xuống hai giọt nước mắt và miệng anh mấp máy. Anh cố nhướng lên như muốn thâu hết mọi hình ảnh rồi đứng tròng. Thái lắc đầu. Tôi thụt lùi lại đứng đằng sau lưng Thái. Thái nhẹ nhàng vuốt mắt cho người thanh niên, rồi đặt xác anh ta nằm thẳng bên chiếc bể cạn.

Trời mưa nặng hạt hơn. Tôi thờ thẫn theo Thái ra ngõ. Trước ngõ, mấy xác Việt cộng nữa vừa mới chết. Họ nằm sấp có, ngửa có. Thái vuốt mắt cho từng người rồi kéo tay tôi đi. Tôi bỗng hoảng kinh muốn vọt chạy tới đằng trước. Thái hỏi:

"Chi rứa chị?"

Tôi nói không ra hơi, đưa tay chỉ lui. Xác một Việt cộng vừa mới được Thái vuốt mắt xong đã nhắm, bỗng lại mở trừng trừng ra, như nhìn theo chúng tôi. Thái xô tôi tới trước:

"Thôi kệ, đi đi chị. Ði đi mau."

Chính chân Thái cũng quýnh lại. Hai chị em dắt díu nhau chạy thoát con đường nhỏ. Một lúc sau tới đồn An Cựu, thấy có thúng hột vịt của ai bị đổ rơi vãi đầy đường, Thái nhặt được ít quả còn nguyên bỏ vào túi.

Hình ảnh người thanh niên tên Khâm vừa mới chết trong một căn nhà lạ cứ ám ảnh tôi mãi. Hắn kể tỉnh táo vậy tại sao lại chết chóng vánh như thế? Cái chết thiệt dễ dàng và đôi khi không giải thích nổi. Hắn đã ở nơi bom đạn trong suốt bao nhiêu ngày, bị bao nhiêu vết thương. Trốn chạy mãi sang gần tới nơi bình yên thì lại chết vì một viên đạn nào đó trong vườn, từ sau một bụi tre bắn đi. Cái chết thật như sự bỡn cợt.
Vậy số phận tôi, số phận gia đình tôi lấy gì bảo đảm. Tôi đã chạy cùng khắp, về nhà quê, lộn lại lên Huế. Ở nhà quê cũng có người chết vì đại bác rơi lạc. Về thành phố, tìm nơi an ổn nhất cũng có những viên đạn đi lạc hết sức vô tình. Tôi bỗng bàng hoàng cả người khi nghĩ tới những ngày ở nhà thờ, ở Cung An Ðịnh, những ngày chạy từ Tân Lăng về miệt đường rầy. Ở đâu cũng đầy cái chết mà chúng tôi chưa biết, chưa chết, chớ không phải là không thể chết.

Ban đầu tôi nghe đồn là Việt cộng ở chơi ba ngày, rồi tăng lên bảy ngày. Rồi tin cụ Hồ vào thăm dân. Cụ chưa vào mà thành phố đã chết đứt một nửa, đã tan nát sụp đổ gần hết. Ngày cụ vào, chắc gì con cháu còn sống để hoan hô cụ. Nhìn đồng bào chết, lòng tôi không khỏi xót xa, nhưng nhìn những xác Việt cộng tôi cũng không thể căm thù họ. Họ cũng chết la liệt cho bác Hồ vô Huế. Thái nói:

"Răng tự nhiên chị khóc?"

Tôi phải nói là tôi sợ lắm. Chắc Thái cũng đang nghĩ gì mà tôi nhìn thấy mắt nó buồn hiu. Về tới nhà, má tôi đang đứng lấp ló ở cửa. Bà chạy xổ ra kéo chúng tôi vào nhà, vừa mắng vừa khóc:

"Tụi bây thiệt. Tụi bây thiệt làm tao hết hồn hết vía."

Rồi bà kéo chúng tôi vào nhà. Trên bàn thờ ba tôi, mùi nhang bay thơm phức. Dì Vạn đang thổi cơm bằng chiếc bếp nấu dầu hôi ở một góc nhà. Dì nói:

"Trưa ni ăn cơm có đu đủ kho nghe bây. Dưới Thủy Dương vừa mang lên, của cậu mợ Giáo gửi cho đó."

Thái ngơ ngác:

"Ai lên, lên khi mô? Mới đánh nhau mà."

"Thì nó lên rồi bị kẹt ở Mù U. Nó phóng xe như bay tới đây, ngớt súng là về liền."

Tôi hiểu dì Vạn nói nó đây là ai rồi. Chắc con trai của cậu Giáo.

Má tôi nói:

"Ðừng có mở cửa nghe. Có nhiều nhà người ta về rồi. Mở cửa sợ Việt cộng biết."

Trưa đó, chúng tôi đang ăn cơm thì nghe một tiếng nổ như sét trên đầu. Cả nhà lại vất hết bưng đầu chui vào hầm. Lại đánh nhau chăng? Nhưng chỉ có một tiếng nổ lớn rồi thôi. Hai cánh cửa sổ đang đóng bật ra, thêm một ít ngói trụt để lộ những mảnh da trời màu chì. Mấy tiếng đồng hồ sau chúng tôi mới biết là một toán lính Mỹ đi ngang gần đồn An Cựu, ngồi nghỉ chân tại bên đường, kiểm lại thấy mất một cây súng. Vậy là họ kéo vào một căn nhà lầu đẹp nhất bỏ trống, đặt mìn giật nổ cho hả giận.

Chương 8
Trở về ngôi nhà cũ

Nhà ở đằng trước đã trở về. Trước Tết, tôi thấy nhà này đông lắm, con cháu ra vô đầy sân. Khi ba tôi mất, ông chủ nhà cũng có qua thăm viếng nữa. Vậy mà bây giờ chỉ có hai người con trai trở về. Họ mặc quần áo đại tang và đội mũ trắng trên đầu.

Tôi biết được họ về là nhờ nghe được tiếng khóc. Một buổi xế trưa, khi vừa chui ra khỏi miệng hầm để giúp dì Vạn lấy nước vo gạo, tôi bỗng nghe tiếng khóc ai oán ở nhà trước mặt ngõ. Dì Vạn khoát tay:

“Im, ai khóc mà dễ sợ rứa. Ai khóc như ma khóc rứa hề.”

Tôi nói:

“Con nghe chừng như tiếng đàn ông.”

Thái bò ra:

“Tiếng khóc bên nhà trước mình, hình như nhà bác Năm thì phải chị hỉ!”

“Chắc vậy.”

“Để em ra sân nghe thử coi.”

Thái thoát ra sân. Tôi vội vã chạy theo nó. Đúng tiếng khóc ở nhà trước ngõ thật. Ngôi mộ trước sân ai đã thắp hương, làn khói mỏng manh bay là là sát mặt đất rồi tan loãng rất mau. Thái đứng trước cây dừa nhìn vào. Một cái đầu rồi hai cái đầu ló ra. Hai người con trai lớn của gia đình này. Mặt mũi đỏ hoe và mắt chưa ráo lệ. Thái hỏi thăm:

“Mấy anh về rồi đó à?”

“Không, tụi tui về rồi đi liền. Về coi nhà cửa ra răng.”

Thái chỉ ngôi mộ:

“Mộ bác gái đấy phải không? Hôm nớ mà chôn được, kể bác gái cũng có phước lắm.”

“Mạ tui chết ngay tại nhà mà. Còn con em tui chưa chết, vì chưa chết mới mang họa.”

“Ủa, chắc cô đã bị thương nặng lắm.”

“Nó cũng chết rồi.”

Người em đưa tay lên trời, chỉ về phía thành phố đang bốc khói:

“Tui thề không đội trời chung với chúng nó. Anh thử coi, con em gái tui bị thương sáng đầu tiên, nhà cháy. Ba tui với em tui chở nó đi nhà thương. Khi nớ mô đã biết Việt cộng chiếm hết thành phố. Rõ ràng là Mỹ với Việt cộng bắn nhau rồi nhà tui cháy. Đạn trúng mạ tui không phải B40 mà là đạn của Mỹ ở ngoài đường bắn vô. Mạ tui chết vì đạn Mỹ chớ không phải của Việt cộng. Rồi ba tui chở em tui, chị gái tui cũng đi theo, đi giữa đường bị trúng bom đạn chi đó chết luôn. Chôn ngoài trường Kiểu mẫu. Trời ơi, tụi tui tới nơi chỉ còn thấy mấy cái thẻ kiểm tra và cái bình thủy đựng nước sôi đã nguội ngắt đặt bên mấy ngôi mộ vùi nông.”

“Mấy anh tìm ra mộ bác rồi?”

Cả hai người cùng sụt sùi. Họ chùi nước mắt:

“Mấy ngày trước lận. Tui nghe họ chỉ chạy ra tới nơi tưởng chết. Rồi tui về đây núp đạn đầu tiên hết. Trong xóm mô có ai. Rứa mà ghê quá, một quả bom chi đó không biết nữa rơi sụp mái nhà, chui tọt vào miệng hầm, cái đầu chổng ngược như một mũi tên, mà nó không nổ. Anh em tui nhắm mắt chờ nó nổ, nó không nổ. Về sau chạy ra được khỏi hầm. Chừ trở về nó vẫn còn mà chưa nổ. Đi tản cư tui cứ lo nó nổ thì tan tành sự nghiệp.”

Tôi sợ tái người. Té ra mấy ngày nay trở về, chúng tôi sống bên một ngôi nhà chứa một đầu bom lớn. Nếu nó nổ, bên nhà chúng tôi không khỏi bị họa lây.

“Bây giờ mấy anh đi mô?” Thái hỏi.

“Chừ tụi tui về Phù Lương. Ở đây sợ lắm.”

Hai người con trai sửa soạn ít thứ cần dùng, ra thắp nhang thêm nơi mộ người mẹ rồi chào chúng tôi, đi ra đường. Thái chạy theo hỏi:

“Mấy anh đi bộ.”

“Không, xuống khỏi Mù U có xe Lam rồi. Xe lên tới rồi.”

Tôi mừng như bắt được vàng:

“Thế hả. Anh làm ơn cho hỏi, xe có qua Thanh Lam không.”

Tôi sực nhớ tới một nơi mà tôi có thể nhờ cậy được. Ở Thanh Lam có một cơ sở nhỏ, chi nhánh của nơi tôi làm việc. Nếu có xe Lam, tôi sẽ đi xuống đó để nhờ họ giúp đỡ trở lại Sài Gòn. Một trong hai người vừa đi vừa trả lời tôi:

“Có, có.”

Tôi chạy một mạch vào nhà. Má tôi hỏi ai khóc đó. Tôi không trả lời câu hỏi của má tôi mà tíu tít khoe:

“Con sắp đi Sài Gòn được rồi.”

“Hí. Mi đi Sài Gòn.”

“Đường đi về Thanh Lam được rồi. Con sẽ về đó xin phương tiện về Sài Gòn.”

Má tôi chưng hửng:

“Thiệt không? Tao không tin được.”

Tôi kể chuyện hai anh em con trai nhà đằng trước ngõ cho má tôi nghe. Má tôi hiểu ra và mừng rỡ. Miễn là thoát được vô với chồng con. Tôi bỗng tím lịm người. Chồng con tôi ở Sài Gòn liệu có còn yên ổn không? Sài Gòn cũng đánh nhau, cũng chạy loạn, cũng chết chóc như Huế. Các con tôi. Các con có đợi má trở về? Nước mắt tôi bỗng chảy giòng giòng. Má tôi nạt:

“Nghĩ tầm bậy. Chắc không can chi mô.”

Câu nói của má tôi vẫn không an ủi tôi được chút nào hết. Nếu gia đình tôi ở Sài Gòn có chuyện gì, thà tôi chết ở đây với Huế. Nhưng sợ má tôi phiền muộn thêm, tôi vội chùi nước mắt.

Buổi chiều hôm đó, Thái đưa tôi về Mù U để chờ xe Lam. Nhưng xe Lam không có.

Tôi lại nghe phía cầu Bực bị giựt mìn, xe cộ không đi lại được. Nhưng đến xế chiều, nhiều đoàn xe Mỹ chạy lên. Rồi nhiều đoàn xe Mỹ chạy về. Cứ mỗi đoàn xe chạy lên, họ chở theo một ít gia đình về hồi cư, đoàn xe trở xuống họ cho thêm vài gia đình đi tản cư. Vẫn cứ cảnh người đi người về, không ai còn biết được ở chỗ nào yên thân hơn chỗ nào nữa. Người ta cứ chạy, còn chạy được là còn biết mình chưa chết.

Xế chiều hôm đó, Túc lên thăm. Túc cho biết là đường quốc lộ một ban ngày yên lắm vì có Mỹ gác. Ban đêm, Mỹ rút về, Việt cộng từ trong núi tràn ra và đi lục soát từng nhà, bắt thanh niên lên núi theo họ.

Tối hôm đó Thái bàn với tôi, ngày mai, hai chị em đi bộ về Thủy Dương rồi mượn xe của Túc đi về Thanh Lam. Đêm đó, tôi không tài nào chợp mắt được.

Lòng tôi nôn nao một cách khó tả. Lúc này tôi mới thấy lòng con người ích kỷ nhỏ nhen hết sức. Giữa sự chết chóc đầy rẫy, vì một chút hy vọng chưa đâu vào đâu, tôi đã vui sướng một mình. Má ơi, má. Nhiều lúc, giữa tiếng đại bác câu ình ình trong đêm, tôi thoáng nghe mơ hồ như có tiếng con trẻ, trong ký ức bật ra hay trong sự nhớ thương vọng tới.

Trận đánh đến bao giờ mới tàn đây. Và thành phố đến hôm nay nữa có bao nhiêu xác chết. Nằm im một chỗ trong bóng tối, dưới hầm sâu, tôi không có thể hình dung ra sự đổ nát, tang thương của thành phố. Chừng đó tiếng súng, chừng đó đại bác, chừng đó bom cũng đã đủ rách nát cả thành phố nhỏ bé, quê hương thân yêu của tôi rồi. Tôi ngạc nhiên khi nghĩ rằng tại sao tất cả súng đạn, từ Mỹ, từ Nga, từ Tiệp Khắc bỗng nằm trên tay người Bắc Việt, người Nam Việt, đổ xuống một thành phố nhỏ bé, hiền lành như thành phố Huế. Bom đạn từ những nước nào thật xa xôi, với danh nghĩa giúp đỡ miền Nam, viện trợ miền Bắc, bỗng dưng cùng tập trung vào một thành phố nhỏ, banh thịt trẻ thơ, cắt lìa tay chân, mặt mũi bao người. Hình ảnh những khúc tay khúc chân tôi nhìn thấy dọc đường. Những cảnh ái ân vụng trộm giữa tiếng súng, trong một góc khu giáo đường trang nghiêm đầy rẫy tiếng kêu, tiếng khóc. Hình ảnh một xác hài nhi bọc trong áo bà mẹ, ôi sự sống, dù sao sự sống vẫn phải tiếp tục. Như tôi còn thở được trong đêm kinh hoàng này đây. Không, không phải chỉ một mình Huế, mà hình như trên bao nhiêu tỉnh khác, cả Sài Gòn, nơi các con tôi, nơi chồng tôi đang sống cũng có những hình ảnh này nữa. Cũng bom đạn, nhà cháy, tan nát, chết chóc. Nhưng tôi bỗng nhiên cứ tin chắc rằng không có nơi nào chịu cảnh khổ cùng cực như Huế, nơi chúng tôi đang chịu.

Trời bên ngoài hình như mưa nặng hạt hơn. Nhưng tiếng mưa đang cố dệt bức màn êm ái mát lạnh cũng đang bị rách nát vì hỏa châu, vì súng đạn, vì máu lệ nữa. Tôi nghĩ tới những ngôi mộ mới lấp đất vội vàng, đêm nay mưa sẽ thấm xuống, mưa sẽ mở mắt cho người chết, hút thêm chút sinh lực của sự sống chưa kịp tan trong thân thể bởi cái chết quá bất ngờ. Mưa cũng sẽ rửa tai cho họ nghe nữa, tiếng thở của đất, tiếng rung chuyển của bom đạn. Đêm nay, còn bao nhiêu xác chết chưa kịp chôn, chưa ai vuốt mắt, hoặc nằm sấp, hoặc nằm ngửa. Bao đôi mắt sẽ mở trợn trừng với một hình ảnh nào đó còn dán chặt trên mặt đất, hoặc còn trong vòm trời cao xám xịt. Thành phố có bao nhiêu con đường hoặc bao nhiêu nhánh rẽ như tay chân, những cánh tay đó đã chết rách bung, không còn đủ sức để vỗ về người tìm tới nữa.

Và trong đêm nay, đoàn người gồm các cha, các sư, dân chúng, bồng bế nhau cầm cờ trắng chạy xuôi chạy ngược đã tản mát nơi nào? Có bao nhiêu người ở lại dọc đường, có bao nhiêu khúc chân khúc tay chới với? Vậy mà tôi còn nằm đây. Lạy Phật. Lạy Chúa. Xin Phật, xin Chúa phù hộ tôi. Tôi chợt hổ thẹn quá. Vì đã bao năm rồi, có bao giờ tôi nghĩ tới Phật, tới Chúa đâu. Nhưng vô ích, đừng có hy vọng hão huyền nữa. Tại sao Phật Chúa chỉ cứu một mình tôi, chỉ thương xót tôi mà không thương xót bao người khác?

Sáng ra, khi thức dậy, tôi bỗng cảm thấy một sự yên tĩnh đến rợn người. Tôi mò mẫm trong bóng tối. Ngọn đèn dầu vặn tim thật nhỏ đặt trong góc hầm đã khô dầu tắt từ lúc nào. Tôi đụng phải những cánh tay, những bàn chân lạnh ngắt. Sao thế nầy? Không còn ai thở nữa hết sao? Không, tôi vừa đụng phải ngực của ai đó còn nóng hổi.

“Sáng rồi, dậy.”

Tôi đánh thức mọi người. Má tôi mệt nhọc:

“Tối qua không ngủ được, sáng ra ngủ chẳng biết trời trăng chi hết.”

Thì ra cả đêm qua ai cũng thức. Thái vùng dậy chui ra khỏi hầm và mở cửa sổ. Có chút ánh sáng tràn vào làm mờ nhạt bớt bóng tối nhưng chúng tôi vẫn chưa nhìn ra được nhau. Khi ra khỏi hầm rồi, tôi vẫn còn cảm thấy bị bọc trong một sự im lặng dầy đặc. Hết đánh nhau rồi sao? Không có tiếng súng nhỏ, không có cả súng lớn nữa. Thái ra dấu cho tôi dừng lại ở cửa rồi chạy ra đường. Một lát nó chạy vào:

“Chị, người ta lại đi tản cư. Răng lạ rứa hè?”

“Đi mô?”

“Họ đi về phía dưới, chắc về chợ Mai, Phù Lương.”

Tôi reo lên:

“Mình về dưới Hương Thủy đi.”

“Chị tìm về sở?”

“Ừ.”

Tôi ngỏ ý ấy với má tôi. Lúc đầu bà cản, nhưng về sau, thấy nhiều người đi về lối Phù Lương quá, bà bằng lòng để cho chúng tôi đi. Ra đến ngõ, má tôi còn dặn:

“Coi đường đi không được thì trở lui nghe con.”

Tôi phải hứa đi hứa lại cho má tôi yên lòng. Chúng tôi theo đoàn người tản cư đi bộ về Thủy Dương. Về tới chợ, chúng tôi ghé vào nhà cậu Giáo mượn xe gắn máy. Nhưng xe hết xăng, không tìm ra xăng ở đâu để mua nữa. Chúng tôi đành phải tiếp tục đi bộ. Đi được một đoạn, chúng tôi theo kịp đoàn người phía trước. Cũng có vài gánh hàng từ dưới đi lên, những gánh rau xà lát xanh non. Thì ra ở đây, chợ búa vẫn họp như thường. Các vùng này, chỉ có ban đêm, Việt cộng mới tràn về bắt bớ, chớ ban ngày hoàn toàn an ninh. Tuy vậy, nhìn vào những thôn xóm, tôi vẫn cảm thấy như có một sự gì ghê gớm, sẵn sàng bùng nổ.

Thêm một đoạn đường nữa, ngang qua cánh đồng rộng, chúng tôi phải đi sát vào bờ đường để nhường lối cho một đoàn xe đang hối hả chạy ngược trở lên. Trên xe đầy lính Mỹ. Thái kéo tay tôi rạt xuống sát bờ ruộng bỏ không, xấp nước. Đoàn xe này chắc lên Huế tiếp viện. Chúng tôi đang ở giữa đoàn xe thì một tiếng nổ lớn, như tiếng súng cối khai hỏa, rồi thì những tràng súng lớn nhỏ bắn từ trong những chòm cây xanh phía sau ruộng ra như mưa. Đoàn xe đi trước vừa bắn trả vừa tiếp tục chạy. Đoàn xe sau dừng lại và tất cả binh sĩ Mỹ đều xuống xe, tràn xuống hai bên bờ ruộng. Chúng tôi vội lăn xuống ruộng, một nửa người dầm dưới nước lạnh ngắt, đầu kê trên một bờ cỏ ướt. Thái luôn miệng giục tôi:

“Cúi đầu thiệt sát chị. Cứ nằm yên, đừng có chạy.”

Tiếng súng hai bên bắn trả nhau như mưa băng qua đầu chúng tôi. Chúng tôi đang ở giữa hai lằn đạn. Tôi vừa lo sợ vừa hối hận quá. Khi ra đi, má tôi đã can ngăn vậy mà tôi không nghe. Bây giờ lỡ chết ở đây thiệt là lãng nhách. Nhưng may quá, tiếng súng phía trong những lùm cây xa dần rồi im hẳn. Họ đã rút. Không ai bị thương hết, đoàn xe Mỹ chỉ bị hư hại nhẹ và năm phút sau họ đã tiếp tục lên đường được.

Chờ cho đoàn xe Mỹ đi khuất thật xa, chúng tôi mới leo lên đường cái. Phía bờ ruộng bên kia cũng có nhiều người lóp ngóp bò dậy. Họ cũng là những người đi tản cư. Đi được một đoạn, chúng tôi gặp một người đàn bà gánh xà lát đang bị thương nặng bên cạnh gánh rau của bà rơi vương vãi. Chúng tôi dừng lại xem xét vết thương của bà và chưa biết làm thế nào thì may quá, một chiếc xe Lam từ dưới Phù Lương đi lên. Người tài xế thấy đám đông nhảy xuống hỏi:

“Mới đụng độ khúc ni phải khôn?”

“Vừa mới tức thì nì. Xe Mỹ ngang qua là họ bắn.”

“Xe chạy qua được hết rồi há? Bà ni bị thương răng đây?”

“Nặng lắm. Bác làm phước chở bà ta xuống Phú Bài, nằm nhà thương Mỹ may ra sống được.”

“Thì tui cũng đoán rứa, tui đang núp dưới nớ, nghe trên ni yên tiếng súng mới lái xe lên coi bà con có ai bị chi không. Trời, tình cảnh ni mình không thương mình thì ai thương.”

Bác tài cùng vài người khác khiêng người đàn bà bị thương lên xe. Bác nói:

“Coi ai đi được thì cứ quá giang tui chở. Không lấy tiền nong chi mô. Ngồi chật chật một chút.”

Thái nói:

“Cho chúng tôi tới đằng nớ. Nơi Thanh Lam đó.”

“Lên đi.”

Chiếc xe chạy băng băng. Tôi nhìn lui lại chỗ vừa giao chiến, không còn dấu vết gì, ngoài gánh rau xà lát rơi vung vãi. Những đồng ruộng vẫn loang loáng nước và những chòm cây xa vẫn im lìm ôm kín niềm bí mật. Người tài xế kể chuyện oang oang, tiếng ông lẫn trong tiếng máy xe nổ nghe khi được khi mất. Đại để ông cho biết là từ hôm xảy ra đánh nhau, ông đã chở bao nhiêu người bị thương về Phú Bài rồi. Giữa đường có nhiều người chịu không nổi đau đớn đã chết, ông chở về làng, ông đem chôn luôn.

Chúng tôi phải hét to rát cả cổ, người tài xế mới nghe và dừng xe lại, thả chúng tôi xuống Thanh Lam. Tôi vào sở một mình. Lúc đứng trong chiếc phòng rộng, tôi mới thấy người tôi ướt lạnh, nước không phải chỉ ứ ra từ quần áo mà như thoát ra từ trong da thịt tôi nữa. Người tôi cứng lại như một khối nước đá.

Người coi chi nhánh nhỏ của sở chạy ra:

“Trời ơi. Mấy hôm ni quay quắt không biết mần răng mà tìm chị. Mần răng mà chị về đây được. Ngồi đây, ngồi xuống đây...”

Tôi không đủ sức để ngồi xuống nữa. Tay chân tôi đi đâu mất trọi. Chỉ còn khối óc chưa đông đặc, ra lệnh cho tôi phát thành lời...

“Anh V, anh biết tin tức chi ở Sài Gòn?”

“À, chị lo cho anh với các cháu há? Không răng, không răng. Mới túi qua trong nớ gọi ra hỏi tin chị. Ngày mô anh cũng tới sở đợi tin chị. Chị yên trí đi.”

“Anh nghe chi về gia đình tôi không, các con tôi...”

“Các cháu vẫn khỏe mà. Trong đó đánh nhau cũng lớn nhưng yên rồi. Chỗ chị ở trong nớ bình an vô sự. Tôi bảo đảm với chị đấy. Đừng lo.”

Một hơi ấm bỗng bừng lên từ ngực và lúc này hình như quả tim tôi vừa đập vừa toát ra lửa, ra không khí nóng ấm. Làn khí ấm áp đó chạy rất nhanh truyền qua mạch máu, tôi đã chợt nhận ra tay chân của mình. Tôi mấp máy đôi môi:

“Anh nói thật?”

“Tôi cam đoan với chị là gia đình trong nớ yên ổn hết. Ngày bữa qua trong nớ gọi ra, bắt đi tìm chị mà. Mà mần răng chị xuống dưới ni được.”

“Tui đi bộ.”

“Chừ chị ở luôn dưới ni để tui tìm cách cho chị vô Sài Gòn.”

Tôi nhớ Thái đang đứng đợi tôi ngoài đường. Còn má tôi, em tôi, anh chị và các cháu tôi nữa. Không, tôi phải ở lại, tôi không thể bỏ đi một mình lúc này được. Mà chắc gì ở lại đây tôi đã yên ổn tìm được phương tiện đi. Ban đêm, ở những đồn, những sở vẫn là những mục tiêu, những miếng mồi ngon của họ, ở đây cũng nguy hiểm lắm. Tôi nói:

“Mai tôi trở lại. Bây giờ tôi phải lên An Cựu.”

Chần chờ một lát để nghe chuyện Sài Gòn, tôi trở ra, mang theo một lít xăng để khi tới Thủy Dương mượn xe gắn máy mà về Huế cho sớm. Thái vẫn đứng chờ tôi ở một cái quán nhỏ xế cửa sở. Hai chị em lại đi bộ đến Thủy Dương.

May dọc đường không có chuyện gì xảy ra. Tới Thủy Dương, hai chị em tôi vào cậu Giáo. Mợ Giáo đã để sẵn cho chúng tôi một ít rau váng, khoai lang và ít thịt heo. Đổ xăng vào xe, chúng tôi chở thức ăn về An Cựu.

Tôi kể chuyện về Thanh Lam cho cả nhà nghe. Khi biết tin mấy đứa cháu ngoại không hề hấn gì, má tôi mừng đến phát khóc. Nhưng bà vừa mừng cho cháu ngoại đến phát khóc thì sau đó lại khổ sở lo lắng khóc cho đám cháu nội còn kẹt trên Từ Đàm.

Buổi xế chiều hôm đó, bỗng ở căn nhà bỏ không bên kia đường có hai người đàn ông lạ mặt tới ở. Trông họ xanh xao ốm yếu lắm. Họ lần mò sang nhà chúng tôi và xin ở tạm. Má tôi vừa trông thấy họ đi vào ngõ đã kéo Thái dấu tuốt vào trong góc hầm. Hai người đàn ông vừa nói chuyện vừa nhìn quanh nhà bằng con mắt láo liên. Họ cố sửa giọng nói, tôi không đoán được giọng nói bình thường của họ như thế nào, nhưng những lời họ nói hình như chưa được quen miệng lắm:

“Thưa bác, chúng cháu chạy loạn về đây, bác cho chúng cháu ở tạm ít bữa.”

Má tôi vội vàng nói lấp:

“Dạ nhà chỉ có mấy mạ con. Dạ ở dưới ni ban ngày lính quốc gia kiểm soát, ban đêm mấy ông giải phóng về kiểm soát. Nhà lại trống trải, xin mấy anh tìm chỗ khác yên hơn.”

“Sao bác không chạy mà về làm chi?”

Má tôi giả vờ chùi mắt, chỉ vào bàn thờ ba tôi:

“Dạ, ba cháu mới mất xong, mạ con tui cũng không muốn đi mô nữa hết, thôi thì phó mặc cho số mạng.”

“Chị đây là con bác?”

“Dạ.”

“Chắc chị làm công chức?”

“Dạ không. Vợ chồng nó thợ may. Nó về chịu tang, còn chồng nó kẹt lại ở trong Quảng.”

“Chị may đồ đầm hay đồ Việt chị?”

Một tên vừa cười cười vừa hỏi tôi. Tôi trả lời bừa:

“Dạ đầm Việt chi mô. May mấy đồ bà ba cho bà con lối xóm mà mấy ông.”

Một người chỉ một căn nhà phía bên kia đường:

“Tụi cháu ở bên kia bác. Có chuyện chi cần bác sang gọi chúng cháu sẽ sang đỡ đạn cho bác.”

“Dạ, cám ơn mấy anh.”

Hai người đàn ông đi vào nhà, nhìn quanh quất và tiến dần đến miệng hầm. Má tôi vội chạy theo:

“Dạ, các anh ngồi chơi uống nước. Dạ trong hầm nớ hôi hám lắm. Mấy ngày không ra ngoài được, mấy đứa cháu nhỏ ỉa đái hôi rình. Mấy anh ngồi chơi.”

Nhưng hai người đàn ông lạ mặt chào chúng tôi rồi đi thẳng ra ngõ. Họ đi vào căn nhà trước mặt. Đến chiều tối chúng tôi không còn thấy họ đâu nữa.

Đêm đến, tiếng súng miệt Phủ Cam, Bến Ngự nổ ròn rã. Đại bác câu về phía đó liên tiếp. Chúng tôi nằm trong hầm, nghe tiếng đại bác dội lại muốn ù tai. Rồi hai ba tiếng nổ ầm ầm như căn nhà đã bị văng đi đâu hết rồi. Gạch ngói rơi trên nóc hầm rào rào. Chúng tôi nằm sát vào nhau, quờ quạng tìm nhau, lúc nào cũng có cảm tưởng như một người thân yêu nữa sẵn sàng bỏ đi trong đêm tối.

Sáng ra, chúng tôi mới biết là những cánh cửa sổ được Thái đóng chặt lại, cột bằng giây thép cũng đã bị văng ra, rơi sau hè nhà. Căn nhà lại sụt ngói, lụi tường thêm một ít nữa. Chúng tôi ra vườn quan sát chỗ nổ. Hai ba căn nhà cách căn nhà phía sau hè bị đại bác câu trúng. Chúng tôi phải đi vòng ra đường, vào hẻm mới tới căn nhà bị đạn. Căn nhà đã hoàn toàn sụp đổ, một lỗ hổng lớn ngay giữa nền nhà. Cây dứa trước sân bị cắt đứt và mái nhà bên cạnh bị mấy tấm tôn quạt sang, hư hại một phần ba mái nhà. Không ai chết, chỉ có vài người bị thương nhẹ vì người chủ nhà này đào hầm ở ngoài sân.

Nhà bên cạnh có một ông già ở lại giữ nhà, con cháu đã đi chạy loạn hết. Ông già quá, chắc đến trên tám chục, không đi được nữa. Ông chả đào hầm hố, cứ ngủ trên tấm phản gỗ nhưng chưa hề hấn gì. Thái và tôi vào căn nhà của ông cụ coi mảnh đạn văng qua phá nát một vách tường phía mặt. Ông cụ hấp hem nhìn chúng tôi:

“Răng về rồi hí? Khôn chạy ở đây trúng đạn hết răng?”

Tôi hỏi:

“Thưa ôn, trong nhà đi mô hết rồi?”

“Xuống âm phủ rồi chớ đi mô. Tổ cha nó, nói đừng có chạy, cả nhà chạy hết, nghe chết mô ở gần trường Kiểu mẫu hết rồi. Tui còn một mình, già mà không chết, con cháu chết hết ở với ai.”

Ông đưa mắt nhìn lên bàn thờ, bình hoa vạn thọ đã héo tàn, mấy bát nhang bỏ không và chén nước trà đâu từ tối mồng một đã gần cạn đọng một lớp bụi dầy trên màu vàng đặc quánh đã sắp hóa đỏ. Ông già ngồi trên phản gỗ, cứ đưa tay dụi mắt hoài, tôi không biết ông bị bụi vào mắt hay đang khóc. Ông ngồi quay lưng ra phía chúng tôi lầm bầm hoài gì đó. Căn nhà điêu tàn hoang vắng rợn người. Ông già như một bóng người chết khô chết héo. Trên bàn thờ, bức ảnh một cụ già móm mém cười, hai mắt đã mất hết màu thiếc ảnh, trắng dã như mắt ma... Thái và tôi không ai bảo ai, đều thụt lùi đi ra cửa.

Đám đông vẫn còn bu đầy trong ngoài căn nhà bị trúng đại bác. Thì ra xóm này dân chúng đã trở về khá đông, nhưng chả ai dám chường mặt ra ngoài, họ đào hầm và sống lẩn lút bên trong. Thái nói là có những gia đình ở chỗ khác tản cư tới đây, rồi ở luôn không đi nữa.

Đám đông đang bàn tán bỗng chạy ào ra đường. Một đám đông khác đang tụ tập đầu hẻm. Thái kéo tôi chạy ra. Đám đông này đang bu quanh một cô gái nhỏ bị thương nặng. Cô gái được đặt nằm trên tấm bố cũ, trải trên lề cỏ ướt.

Theo người ta bàn tán, nhà cô nhỏ này ở trên đường rầy. Tảng sáng, một trái đại bác đã rơi trúng sau vườn và mảnh đạn ghim vào người cô. Một mảnh đạn đã trúng bụng và đám ruột lòng thòng chảy ra ngoài. Cả người cô được bao kín bằng tấm mền cũ nhưng máu thấm ra ướt mèm tưởng vắt thành giọt được. Mặt cô bé tái xanh, hai mắt mở lờ đờ. Người cha ngồi xổm bên đứa con gái vừa khóc vừa lạy van:

“Lạy bà con cô bác, làm ơn kiếm xe dùm chở con tui xuống Phú Bài cho bệnh viện Mỹ nó cứu.”

Nhưng đường sá chẳng có chiếc xe nào, trừ những đoàn người tản cư không biết từ mạn nào, kéo về và cứ đi thẳng theo quốc lộ 1. Thái cúi xuống xem xét vết thương của cô gái rồi lắc đầu. Một người nói:

“Cứu liền may ra kịp.”

Nhưng cô gái vẫn nằm chờ bên đường cho tới trưa, cố nhướng đôi mắt đã lạc thần lên nhìn người cha, nấc lên một tiếng rồi trợn ngược mắt.

Người cha khóc ầm ỹ, ôm lấy xác con và cứ thế, ông chạy miết dọc theo quốc lộ, vừa chạy vừa la khóc thê thảm. Mấy người lính gác đồn Trường Bia chạy ra ngăn ông lại, nhưng không còn ai ngăn nổi ông nữa. Chạy được một quãng, ông ta ngồi lại bên lề đường đợi chờ từng phút hơi thở con gái yếu dần. Thái nói:

“Thôi vô nhà đi chị.”

Chúng tôi đi trở về, dọc đường, Thái hỏi một đoàn người chạy lại:

“Ở mô về đó bác?”

“Từ Đàm.”

“Bác ở mô?”

“Bến Ngự.”

Thái reo lên và cầm chặt tay tôi kéo chạy. Vào tới nhà. Thái la lớn:

“Trên Từ Đàm tản cư về. Có người về.”

Nhưng khi má tôi chạy ra được thì đoàn người đã đi xa. Những đoàn người khác tiếp tục kéo về. Họ ở những vùng khác. Bên phố, trên Bến Ngự, trên ga, Phú Cam. Một người ở Bến Ngự cho biết là trên Từ Đàm kẹt lắm, bộ chỉ huy Việt cộng vẫn đóng ở đó. Và quân Mỹ đã dàn tới bên kia cầu Bến Ngự.

Má tôi lại thất vọng. Buổi trưa, dù có đồ ăn ngon dưới Thủy Dương gửi lên, không ai cảm thấy ngon. Hình ảnh cô bé với đống ruột lòng thòng chờ chết từng giây từng phút bên lề đường làm tôi xốn xang.

Khi chúng tôi ăn cơm xong, ở ngoài đường lại thấy từng tốp lính từ phía quốc lộ đi vào thành phố, qua An Cựu. Họ mang ba lô, súng ống, người này cách người kia chừng nửa thước, và hoàn toàn im lặng. Họ không ngó ngang hai bên nhà cửa đường phố. Thái nhận ra là lính Biệt động quân, rồi một đoàn nữa là lính Nhảy dù, rồi Thủy quân lục chiến. Dù má tôi ngăn mấ, hắn cũng chạy ra đường, giơ tay vẫy. Tôi cũng chạy theo Thái. Ở một vài sân nhà khác, cũng có nhiều người ra đứng giơ tay vẫy và hỏi thăm. Những người lính này như ở xa đến, người họ còn đầy bụi và có vẻ lo lắng mệt mỏi. Họ mỉm cười trả lời những bàn tay vẫy, những lời thăm hỏi. Thái ra sát đường:

“Anh ơi, anh ở mô tới đó?”

“Tụi này ở Sè gòng mới ra.”

Một người vừa trả lời vừa đi. Người đi tiếp theo thò tay vào ba lô lấy ra hai hộp nhỏ liệng vào chân Thái:

“Biếu bạn. Mừng bạn còn sống.”

Người đi tiếp theo lôi ra một gói thuốc, người tiếp theo nữa lại liệng thêm ít đồ hộp. Tôi chạy theo trả lại:

“Các anh cầm đi mà ăn, còn đánh nhau nhiều mà.”

“Thôi cô cầm đi. Chúng tôi biết có sống mà ăn không! Đi quyết tử mà.”

Vài nụ cười, vài cái nhún vai. Tôi đứng sững người nhìn theo. Mấy hôm nay có nhiều tin tung ra: lính tới vùng nào an ninh là vơ vét, chở đồ của dân bỏ lại chạy loạn. Người ta hối hả trở về để giữ của, và vì sự vội vàng mà nhiều người chết oan. Nhưng đoàn quân này sao khác hẳn. Một thỏi kẹo nữa văng tới chân tôi. Tôi không còn đủ sức cúi xuống nhặt nữa.

“Mừng các bạn còn sống.”

Mấy người lính đi sau tiếp tục la hét. Những bàn tay vẫy đưa trả lại, những nụ cười chào nhau tiếp theo. Đoàn lính đi qua dần, tôi đã cúi xuống được, cầm chặt thỏi sô cô la trong tay và bóp vụn nát lúc nào không biết nữa. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy những người lính dễ thương như thế. Họ là lính miền xa đến để chết ở Huế. Họ người Sài Gòn, người Bắc di cư, người các tỉnh miền Nam, miền Trung, miền Bắc. Họ đến để chết với Huế. Trời ơi, tôi nghĩ tới những người lính địa phương, một số đã bỏ đồn chạy về ngay từ hôm đầu, một số đợi hơi yên là xổ ra, đi vác gạo, đi vào những căn nhà bỏ không lấy đồ. Những món ăn béo bở Việt cộng đã khuân đi từ mấy ngày đầu xẩy ra biến loạn, những món cặn thừa còn lại dành cho kẻ thừa nước đục thả câu. Tôi đã thấy hai người lính khiêng chiếc xe Honda, vài người khác khiêng tủ, khiêng ghế, hoặc bọc những vật dụng lấy trong các nhà đổ nát, còn hôi rình xác chết. Thái đã ôm mấy hộp đồ lên tay và giục tôi trở vào. Khi nghe kể chuyện, má tôi cảm động muốn khóc.

“Tội nghiệp, lấy của họ mần chi, để họ ăn cho có sức mà đánh.”

Dì Vạn cứ suýt soa hoài:

“Họ tốt quá hí. Rứa mới biết là họ dễ thương chớ mô có như mấy thằng mắc dịch ở trong xóm, ăn cắp, thừa nước đục thả câu mà. Tụi nó lại sống nhăn mà mấy anh đó lại cực khổ dầm vào chỗ tên đạn mới tội chớ.”

Có tiếng súng ở xa xa vọng lại rồi. Chắc lại đánh nhau. Tôi nghĩ tới những người lính vừa liệng cho chúng tôi những hộp thịt, những thỏi kẹo. Họ cười đó, nhưng lúc này đã có người ngã xuống. Huế sẽ làm gì cho họ trong những ngày sắp tới. Không, Huế cũng đã trơ xương da rồi, tan nát hết rồi. Nhưng chắc chắn Huế sẽ còn, dù bằng tàn lửa, bằng tro nguội, bằng xương người. Các anh sẽ có người còn sống còn trở về lại quê nhà và còn trở lại để giữ Huế.

Thái đã đốt một điếu thuốc. Nó thả khói thành những vòng tròn, đốm lửa đầu thuốc lập lòe khi thu nhỏ, khi bùng lớn, như nỗi hy vọng đang dần dà phấn khởi rồi thắt lại trong hồn tôi.

Đúng lúc ấy, tôi bỗng bàng hoàng vì có tiếng động ngoài sân. Rồi có tiếng gọi:

“Má ơi.”

Giọng con gái. Má tôi ngồi rột dậy. Cả nhà túa ra miệng hầm. Má ơi, má ơi, má ơi, má ơi... Tiếng gọi má ơi không dứt. Cánh cửa mở tung. Chiếc xe đạp rơi bịch xuống đất và Hà nhảy xổ vào nằm gọn trong lòng má tôi: Má, má, má...

“Con, con... Ui cha con Hà. Ba hồn bảy vía con Hà... Con về được, con về được.”

Tôi chợt nhìn ra sân, một ông già mặc áo dài đen, đang đứng cầm ghi đông xe đạp nhìn vào nhà mà mỉm cười.

Má tôi kêu lên:

“Ôn Minh. Ôn về răng rứa?”

Rồi má tôi khóc, khóc sung sướng, khóc ồn ào:

“Ôn ơi, ôn vô đây. Ôn vô đây ôn.”

Ông già bình tĩnh dựng xe đạp, vuốt lại vạt áo dài đen rồi bước lên từng bực cấp đi vào nhà. Má tôi vẫn còn ôm chặt cứng Hà trong tay. Ông già mà má tôi gọi là ôn Minh chỉ vào Hà:

“Tui đem con lỏi xuống cho bác đó. Mấy hôm ni hắn đòi đi, hắn hành tui bất tội thân mà.”

“Ông đem con xuống đó má.”

Ông Minh vừa ngồi xuống ghế vừa nhìn quanh nhà:

“May phước, nhà không bị hư hại chi nặng hết.”

Má tôi vừa giục tôi pha nước vừa hỏi:

“Ôn ơi, tụi còn ở trên ra răng ôn?”

“Không răng. Tụi nó còn ở trên. Thầy Lễ thầy nóng lòng lắm, cứ nhất định đòi đi xuống dưới ni tìm bác. Tui phải cản. Hai ôn con tui ngày mô cũng tìm cách đi xuống dưới ni mà đi khôn được đó chớ.”

“Có đứa mô bị...”

Má tôi dừng lại, mặt tái xanh chờ đợi. Ôn Minh uống một ngụm nước:

“Không răng. À, chỉ có con Hy bị trúng một miểng đạn vô chân. Mà không răng, trên đó có mấy tên y khoa, hắn băng bó cho rồi.

Nhờ có ông già mặc áo the đen và Hà thuật lại, tôi biết thêm rất nhiều về tình hình trên Từ Đàm. Gia đình anh tôi phải bỏ sang lánh nạn bên nhà thờ cụ Phan. Xung quanh đã gần tan tành hết. Chùa Từ Đàm nơi chính diện cũng sập mái, nhà giảng thì bị đại bác câu tới tấp, tan tành. Mấy ngày đầu, Việt cộng chiếm chùa để trú ngụ và tạm thương, nhưng về sau họ rút dần lên phía trên núi, chỉ có cắt quân canh gác và đào hầm chiến đấu. Ôn Minh cho biết hiện ở chùa có hàng trăm người tỵ nạn và xung quanh đó, nhiều nhà đã sập hoàn toàn. Con đường từ nhà thờ cụ Phan xuống tới cầu Bến Ngự, hai bên nhà cửa không còn một căn nguyên vẹn. Gia đình anh tôi chạy qua hết bên nhà cụ Phan cùng với nhiều gia đình và những người tỵ nạn khác. Hà chỉ vào ông già:

“Chị biết ai đây không? Ông Võ Thành Minh đó.”

Thấy tôi ngơ ngác, nó nói thêm:

“Ông là người thổi sáo bên hồ Genève phản đối chia đôi đất nước hồi 54 tề, chị.”

Tôi nhìn ông già, ông đang bận kể chuyện cho má tôi nghe. Hà nói tiếp:

“Ông Minh mà chị không biết há? Ông còn tên là Võ Song Thiết đó.”

Tôi hỏi nhỏ:

“Bây giờ ông làm gì?”

“Ông giữ nhà thờ cụ Phan, ông là đồng chí của cụ Phan mà chị. Mấy ngày đánh nhau, nhờ có ông mà nhiều người khỏi chết đó nghe. Vui lắm.”

Tôi trợn mắt:

“Mày nói vui? Trời ơi, chết như vậy mà mày nói vui sao?”

“Ông Minh nói ở hoàn cảnh mô, mình cũng cố gắng vui sống. Ông Minh có sợ chết mô. Ông đi hoài cả ngày chị. Ông đi phát gạo, đi tải thương, đi thăm các nơi...”

Tôi nhìn kỹ ông già. Ông mặc áo the đen, quần vải trắng, đầu đội chiếc mũ bê rê đen.

Không biết má tôi kiếm đầu ra trầu mà bà đem ra mời ông nhai trầu bỏm bẻm. Khuôn mặt ông thông minh, hiền lành. Nhìn ông, người ta dễ bắt nhạy cảm tình hơn là nghi kỵ, dò xét. Hai chiếc xe đạp vẫn còn ngoài sân. Mưa phùn vẫn chưa dứt và tiếng súng vẫn vọng xa xa. Má tôi lại hỏi:

“Ôn đi ngả mô xuống đây?”

“Hai ôn con tui đi cùng các đường. Mấy bữa ni rồi. Có bữa đi xuống quá Lầu Đua Ra lại thấy đánh nhau, bắn nhau quá phải trở về. Con Hà nó nóng ruột lắm.”

Má tôi đưa đôi mắt đầy trách móc nhìn em gái tôi. Nó cúi đầu và hơi mỉm cười.

Ông Minh tố thêm:

“Biểu nó ở nhà đố nghe đi. Ôn đi là con đi với, con đi với ôn. Mấy ngày trước, hai ôn con lên núi Ngự Bình coi đánh nhau, định tìm đường về dưới ni nữa. Gặp lúc họ đánh nhau, đại bác câu lên núi yểm trợ ầm ầm, hai ôn con lăn từ giữa lưng chừng núi lăn xuống, rồi nằm vùi nơi một hố bom. Khiếp thiệt. Rứa mà con Hà hắn thích lắm. Con ni gan nó là gan cách mạng mà.”

Má tôi chăm chú nghe ông Minh kể, khuôn mặt lúc tái lúc vui. Bà thở ra khi nhìn Hà đang nhìn bà mà cười:

“Mi thiệt á!”

“Ừ, hai ôn con lên Lầu Đua Ra, lấy được đôi giày còn mới nguyên.”

“Dễ sợ quá ôn hí. Cả Lầu Đua Ra toàn máu khôn à.”

“Khỉ, rứa mà cứ đi. Con ni thiệt...”

Có lẽ sợ má tôi lo lắng, Hà nói lơ sang chuyện khác:

“Ôn nì, chị con đây ôn nì.”

Tôi lại phải gật đầu chào ông Minh. Vừa gặp ông, tôi đã có cảm tình ngay. Nhớ những lời lẽ do người thanh niên tránh nạn về kể lại bữa trước, tôi không thấy xa lạ với ông chút nào hết.

“Hà nó noái chuyện về chị luôn đó.”

Tôi cười:

“Ôn ơi, ôn đừng gọi con bằng chị nữa. Coi con như Hà rứa.”

Ông Minh gật đầu:

“Phải đa. Rứa cho nó dễ gọi. Tội nghiệp, con ra đây mắc kẹt phải không?”

“Dạ.”

“Mấy con rồi?”

“Dạ hai.”

“Tội nghiệp.”

Hà chen vào:

“Ông Minh nghệ sĩ lắm nghe chị. Ở trên Từ Đàm đánh nhau, bắn nhau rầm rầm mà ôn cứ họp thanh niên trốn trong nhà thờ cụ Phan lại đàn hát cả ngày.”

Tôi hỏi:

“Quân giải phóng để yên cho ôn làm ồn vậy răng?”

“Mấy ngày đầu cơ chớ. Về sau thì lo mà trốn cho kỹ. Ôn noái mấy anh thanh niên xuống cầu Bến Ngự đòi tuyệt thực phản đối chiến tranh.”

Tôi tức cười:

“Ôn nói chơi.”

Hà nháy mắt ra dấu bảo tôi đừng nói nữa. Rồi nó quay sang ông Minh:

“Ông cho chị con coi cái giấy do Mặt trận giải phóng cấp cho ông đi đường.”

Ông cười hiền hòa:

“Hà, mi noái tầm bậy. Giấy đó ăn thua chi. Tao đi bên mô cũng được vì tao có làm nô lệ cho ai mô. Tao chống hết, chiến tranh là tao chống.”

Hà mách tiếp:

“Ôn còn viết thư phản đối Hồ Chí Minh, cả tổng thống Mỹ và kêu gọi thế giới nữa.”

“Tao mần một mình mà ăn nhằm chi. Rứa nhưng cũng cứ mần, phải không con?”

Ông đưa mắt sang tôi và mỉm cười. Tôi gật đầu. Ông nói tiếp:

“Con có dám ra cầu ngồi phản đối chiến tranh với ôn không?”

“Ôn nói dỡn hoài.”

Má tôi lại chen vào:

“Ôn làm răng đưa Lễ với vợ con nó về dưới ni giùm đi ôn!”

“Thì ôn con tui đang dò đường đi đây nì. Khó thoát lắm. Bữa ni phải đi vòng Lầu Đua Ra, rồi vòng xuống ngã đường rầy không được. Hai ôn con lại vòng ngã Tây Thiên. Trên rứa, đại bác như mưa rứa, đi miết lên Tây Thiên mới ngớt tiếng nổ.”

Thấy nước mắt má tôi chảy dài, ông an ủi:

“Có người ta có mình. Còn tui thì không lo chi hết nghe.”

Hà thêm:

“Chị đi ra ngoài xe đạp ôn a tề. Đó, có cái bị đựng gạo. Bao nhiêu gạo tốt, ôn đem phát hết rồi, đó toàn là tấm khôn đó thôi. Thôi thì cả ngày ôn đi phát gạo, đi tải thương. Ôn chỉ có cái xe đạp đó.”

Chiếc xe đạp của ông được dựng bên cái cột bằng giàn hoa, trên ghi đông treo lủng lẳng một cái bị bằng vải căng tròn. Tôi nhìn lại ông, ông bỏ cái mũ ra rồi lại vội vàng đội lên đầu:

“Thôi, chắc tui phải đi. Phải lên lại Từ Đàm.”

Má tôi nài nỉ:

“Ôn ở lại ăn cơm đã rồi lên. Chừ nghe mô đang đánh nhau mà ôn.”

“Đánh nhau kệ cha chúng. Tui lên. Coi chiều ni còn đi tải thương nữa. Đi tải thương nì, đi kiếm thức ăn nì, trên nớ tụi nó hết đồ ăn rồi.”

Hà nói:

“Khi mô ôn xuống?”

“Mơi.”

“Mơi ôn xuống, con lên lại với ôn hỉ.”

Má tôi nạt:

“Mi tưởng chuyện giỡn há, răng mà đòi đi.”

Ông Minh bênh Hà:

“Can chi, sống chết có số cả mà bác. Con ni dạn lắm nghe. Tui mà còn làm cách mạng, tui cho nó theo liền.”

Má tôi nể ôn Minh, làm thinh. Hà dặn đi dặn lại: mai ôn nhớ về. Tôi và Hà đưa ông ra tận ngoài ngõ:

“Thôi bây vô đi. Đứng ở ngoài nguy hiểm lắm.”

“Ôn ơi, lên tới, nói cho anh con biết kẻo anh con lo nghe ôn. Noái má con với cả nhà ở dưới ni yên lành hết.”

“Ừ.”

“Ôn nhớ mai xuống nhe ôn!”

“Ừ.”

Ông leo lên xe đạp và đạp đi, chiếc áo đen khuất dần nơi nghẹo. Hà ngẩn ngơ. Tôi nói:

“Thôi vô.”

“Dưới ni yên quá chị hỉ!”

“Ừ yên.”

Tôi không nỡ kể cho em tôi nghe về những trái đại bác câu lạc lúc gần sáng. Tôi cũng dấu luôn chuyện đụng độ mỗi ngày xảy ra trên quốc lộ. Chỉ cần sau ruộng, sau xóm có một vài phát AK, hay vài quả B40 bắn ra là cả con đường này có thể tan tành hết. Ngay ngày đầu tiên nổ súng, quân Mỹ cũng lên được tới An Cựu coi tình hình để rồi sau đó về nằm yên một nơi cho Việt cộng hoành hành. Khi đi ngang qua khỏi nghẹo, một phát súng ở đâu phía sau Miểu Đại Càng bắn ra. Đoàn quân Mỹ dừng lại, một vài người Mỹ đi vào nhà gần nhất lôi ra một thanh niên. Anh này biết nói tiếng Anh, là một giáo sinh trường sư phạm Quy Nhơn về thăm nhà. Anh đưa giấy tờ, nói chuyện với người Mỹ. Nhưng họ đâu cần biết. Một phát súng nổ, người thanh niên tội nghiệp ngã xuống đất, co dúm người lại. Người Mỹ leo lên xe lái về Phú Bài. Trong căn nhà gần đó, mọi người đổ túa ra ôm lấy xác thanh niên khóc lóc. Một vài anh giải phóng đang đóng quân trong những nhà mặt sau tiến ra:

“Đả đảo quân Mỹ tàn ác giết dân.”

“Chúng tôi xin chia buồn. Đây là một cái chết anh dũng, một người vì dân vì nước.”

Một lá cờ màu mạ nhỏ được đắp lên mặt người chết. Một lúc sau mọi người rút đi hết. Chỉ còn thân nhân của xác chết vẫn chưa ngớt gào khóc, nhưng rồi tiếng khóc của họ cũng chìm dần trong tiếng súng nổ ran bốn phía. Còn nhiều nữa, làm sao tôi có thể kể cho em tôi nghe hết. Mới mấy ngày trước đây, quân Mỹ mất một khẩu súng đã giật đổ một căn nhà lầu. Mới mấy ngày trước đây, dãy nhà bên kia đường có một gia đình mới về. Đêm hôm đó quân giải phóng về bắt người chủ gia đình đi mất. Người này làm gác dan hay giữ xe gì đó cho một chi nhánh cảnh sát. Ông ta đã già và chắc tới nay đã ra người thiên cổ. Hà vẫn đi bên tôi trở vào nhà. Nó hỏi:

“Nhà mình đào hầm chưa?”

“Không đào hầm thì chết rồi. Ngày nào cũng có đạn lạc, có đại bác rơi gần. Ở đây mới yên có mấy ngày nay.”

“Trên nớ dễ sợ lắm. Chị biết không, đại bác rơi như không ngừng, rồi máy bay. Bữa trước có mấy người chết, người ta sợ quá đem ra vườn chôn. Máy bay bắn xuống như mưa, sợ quá.”

Má tôi đã đón ở cửa. Khi chúng tôi vừa lọt vào cửa là bà đóng chặt cửa lại.

Thái cũng ở trong hầm bò ra:

“Chào chị Hà.”

“Ủa, khi hồi tới chừ mi ở mô?”

“Trốn ở trong hầm.”

“Răng mi không ra?”

“Ra sợ lắm. Biết chị ra răng mà ra. Lỡ chị là người của giải phóng thì răng.”

“Đồ con khỉ. Tao về mà mi không mừng.”

“Em nói chơi đó chớ. Nghe tiếng chị là em mừng bất chết. Nghe có tiếng đàn ông, em tưởng nhiều người em sợ. Mấy hôm ni, túi họ về bắt người dữ lắm nghe chị. Cứ có tiếng cú rúc là họ về.”

“Ủa, răng giống trên nớ rứa? Trên nớ đêm mô cũng nghe toàn tiếng cú rúc. Dễ sợ lắm.”

“Mật hiệu của họ đó.”

Má tôi vẫn chưa hết thắc mắc:

“Mà răng họ để cho con đi?”

“Mấy bữa đầu họ cấm, về sau đại bác bắn lên quá, họ để ai đi thì đi. Đàn ông thanh niên đi, họ mới bắt.”

Tối hôm đó, mấy chị em nằm cạnh nhau, Hà kể chuyện Từ Đàm, cho biết tất cả chùa đều bị sập. Quân giải phóng treo cờ làm trụ sở chính ở chùa Linh Quang, và tổ chức những buổi học tập tại đó. Mấy ngày đầu không ai được ra khỏi nhà. Ở trong nhà làm hầm, ở ngoài quân giải phóng đào hố cá nhân, không khí có vẻ khẩn cấp lắm. Nhưng mấy ngày đầu hoàn toàn được yên tĩnh, không ai lo sợ mấy, đến khi đại bác câu tới, dân chúng mới hoảng hốt đi tản cư. Nhưng ra đường là chết. Tôi hỏi họ có treo cờ đỏ sao vàng không. Hà nói chỉ có cờ máu mạ. Ngay ngày đầu, họ đã hô hào hạ hết “cờ ba que” xuống và kiếm vải may cờ máu mạ. Thái hỏi thăm về đoàn cán bộ xây dựng nông thôn đóng ở trường học mấy hôm trước Tết. Hà ngao ngán: Tụi đó nó chạy đâu mất hết từ khi có tiếng súng nổ, vất đồ lại lung tung. Khi em lên tới thì không có chi nữa. Hà tả cho tôi nghe những cô nữ cán bộ. Các cô này đi thăm dân, vào từng nhà hỏi han, nhưng các cô vào nhà ai là làm cho trẻ con, bà già sợ rụt lưỡi lại. Hà kể cho tôi nghe chuyện bà xếp Mập. Nó nói:

“Buồn cười lắm chị. Mấy người giải phóng bầu cho bà xếp làm mẹ giải phóng. Chút chi họ cũng gọi mẹ giải phóng. Bà sợ họ lắm. Cứ mỗi lần gặp họ vô nhà là bà tíu tít: Mẹ giải phóng, mẹ giải phóng. Các con xức chút dầu với mẹ. Bao nhiêu chai dầu Nhị thiên đường bán nơi quán của bà, bà cho hết. Cứ thấy mặt họ là bà ngã lên xuống sứt mặt sứt mày hết.”

Tôi hỏi Hà có sợ không, nó nói sợ thì có sợ, nhưng mấy ngày đầu, nhờ có ông Minh nên vui lắm. Ông họp thanh niên lại hát hỏng đờn ca ở nhà thờ cụ Phan. Ông đòi viết thư phản đối chiến tranh. Mấy ngày đầu không có tiếng súng, ông ngồi đánh máy chữ lóc cóc rồi tổ chức hát. Ông nói rằng hát như thế mới bớt thì giờ trống để lo sợ. Hà cho biết là khi qua bên nhà thờ cụ Phan thì gặp bà vợ ông giáo sư Lê Văn Hảo, người được quân giải phóng đưa ra làm thị trưởng Huế. Tôi tò mò hỏi thăm. Hà cho biết là bà ta nói là trước Tết, ông Hảo bảo bà mua ít gạo thức ăn dự trữ, chứ không cho bà biết gì hết. Trái với lời của người thanh niên thuật lại, Hà nói bà Hảo rất dễ thương, bà còn có đứa con tên Nai. Ông Minh hết lòng giúp đỡ bà ta. Bà Hảo cũng như những người đàn bà sợ súng đạn và nhát gan. Bà chẳng rõ gì công việc của chồng hết.

Má tôi nói làm thế nào cũng phải đưa anh Lễ và gia đình về dưới này. Hình như Mỹ đã tiến tới cầu Nam Giao. Hai bên đang hầm hè nhau và cùng giữ thế thủ. Nếu để họ đánh nhau thì bao nhiêu dân còn lại sẽ chết hết.

Hà nói:

“Mai ôn Minh về, con lên Từ Đàm.”

Má tôi làm thinh. Hà nói:

“Chị lên với em không?”

Tôi không hứa với Hà, tôi đang ở trong tình trạng vô cùng nguy hiểm. Nếu họ biết tôi, họ tìm ra tôi, chắc chắn tôi cũng sẽ bị bắt đi như bao nhiêu người công chức khác. Thái hỏi:

“Đi ngả mô?”

“Đi ngả núi Ngự Bình. Trên đó trống không, họ rút cả rồi. Bữa trước em với ôn Minh đi lên thấu núi Ngự Bình đứng coi hai bên bắn nhau. Đại bác câu tới, sợ quá lăn xuống núi, còn đầy dấu nơi tay em đây nì chị. Em đi với ôn tới Lầu Đua Ra nữa. Toàn máu là máu, có xác chết thúi rình...”

“Chị đi rứa có thấy xác Mỹ không?”

“Phía sau Lầu Đua Ra, tao có thấy một hai xác chi đó. Nó trương lên rồi, coi dễ sợ lắm.”

Hà đưa tay sờ vào tường hầm, nói:

“Hầm như ri dễ sợ lắm. Làm lại hầm đi. Ở đây yên rồi nhưng sợ đại bác câu lạc trúng thì chết hết.”

Má tôi nhớ lại mấy trái đại bác hồi tảng sáng làm sập nhà, chết người, bà thở dài:

“Lấy chi ra mà làm hầm.”

Hà nói:

“Mai con lên trên nớ, con mua bao cát về cho. Trên nớ bán thiếu chi.”

Thái cũng chen vô:

“Trên bác con còn một ít, để mai con lên trên, con hỏi anh Bé.”

Chúng tôi lại bàn việc đào hầm. Hà nói không nên làm hầm trong nhà, nguy hiểm lắm. Nhỡ nhà sập, hầm không sập cũng không thể có lối ra, dám bị chết nghẹt lắm. Cuối cùng, chúng tôi bàn mai sẽ đào hầm ở ngoài sân. Má tôi nói: Thôi chị em bây ngủ đi. Hà ôm lấy tôi, tôi cũng vòng tay ôm lấy nó. Thật là may mắn, trong khi bao nhiêu người chết, bao nhiêu gia đình tan nát, chị em tôi còn được nằm cạnh bên nhau. Mải nói chuyện, chúng tôi quên cả tiếng súng vẫn ỳ ầm khi gần khi xa. Một lúc sau, Thái nói:

“Bắn dữ quá chị.”

Hà góp:

“Dữ chi mà dữ. Trên đó cứ nổ ình ình bốn phía, lúc nào cũng như sắp nổ trên đầu mình.”

“Rứa Việt cộng có chết không?”

“Có chớ răng không. Mình ở trong nhà, trong hầm tốt mà còn chưa chắc yên, huống chi họ ở trong cái hố nhỏ xíu. Trước nhà mình còn có một tên giải phóng gác.”

“Có nói chuyện với em không?”

Hà làm thinh. Má tôi gắt nhỏ:

“Ngủ đi chớ bay, nói chuyện hoài răng. Ngủ đi, sáng mai lấy sức mà đào hầm mới.”

Tôi nghĩ tới anh tôi, lúc này đang cùng vợ con ở trong căn hầm tối tăm, và biết đâu đêm nay, quân Mỹ Việt sẽ tấn công lên Từ Đàm. Chỉ một giờ, một phút qua, mọi sự có thể thay đổi hết. Biết đâu ngày mai em tôi không còn trở lên trên đó được nữa. Cũng như tôi, biết đâu bây giờ đang ở vùng đã yên, mà sẽ không còn được trở vào Sài Gòn để gặp chồng con nữa.

Nhưng rồi tôi cũng chẳng còn đủ sức để nghĩ tiếp. Tôi nhắm mắt và ngủ êm trong tiếng đại bác đang nổ tới tấp, cày nát một thành phố thơ mộng, đẹp đẽ.

Chương 9
Con chó giữa dòng

Chỉ một đêm ngủ dậy, sáng ra, đường sá bỗng náo nhiệt hẳn. Lính từ dưới Phú Bài theo quốc lộ 1 lên nhiều lắm. Họ đi bộ và vẫn cứ đi dọc từng người, đeo ba lô. Họ vừa đi vừa nhìn xung quanh, hai bên đường, và mỉm cười chào những người đang đứng nhìn theo họ. Không biết dự trữ từ bao giờ mà một bà già đã bày một rổ giá đựng thuốc lá ra bán ở góc nghẹo Ðường Nay. Vài anh lính dừng lại:

"Mẹ bán cho con một gói Ru by đi mẹ."

"Các anh muốn gói mô cứ lấy. Tui có biết Ru by là thuốc chi mô."

Một giọng hỏi:

"Vậy thuốc đâu mà mẹ bán vậy mẹ?"

"Há? Thuốc mô há? Thì tui tản cư về đây, tui thấy người ta bỏ lại có cái giá bán thuốc ni dưới gầm giường. Thấy mấy anh đi qua, tui bày ra bán kiếm ăn."

"Mẹ lấy bao nhiêu?"

"Biết chi mô. Mấy cũng được."

Người lính móc ví lấy ra tờ giấy hai trăm đưa hết cho bà già. Bà ta ngẩn ngơ:

"Nhiều ri! Mấy chục mà."

"Mẹ cầm hết mà tiêu."

"Khôn, khôn. Mấy anh đi đánh giặc, cầm lấy mà mua thức ăn. Tui biếu không đó..."

Vài người dừng lại, họ vất ra một trăm, hai trăm lấy thuốc. Chỉ một lát, thuốc lá hết sạch. Bà già cầm một nắm tiền toàn giấy trăm chạy theo mấy anh lính:

"Mấy anh ui, tui không lấy tiền. Cho chi mà diều ri nì..."

Mấy cái đầu quay lại, cười:

"Mẹ giữ mà mua thức ăn. Tụi con biết sống chết ra sao."

"Ði tới đầu đạn mà mẹ."

"Chúc mẹ may mắn..."

Ðoàn đi trước đã bỏ bà già quá xa, đoàn lính sau tiếp tục đi đến, thấy một bà già vừa chạy vừa kêu, không hiểu chuyện gì. Họ lại móc trong ba lô ra những đồ hộp nhỏ, liệng tới chân bà già:

"Bà đói hả? Ðây, cầm lấy mà ăn."

"Bà còn con cái chi không?"

Nhiều tiếng thăm hỏi. Nhiều hộp nhỏ rơi tới chân bà. Bà chưa kịp nhặt thì có mấy đứa trẻ con ở đâu chạy ra nhặt hết. Mấy anh lính nạt đùa:

"Ê nhường cho người già cả với tụi bây."

Bọn trẻ ù té chạy. Mấy cái hộp được trao tận tay bà già. Vài anh ân cần:

"Thôi bà trở về nhà đi, đừng chạy theo mà nguy hiểm lắm."

Ðoàn lính lại tiếp tục đi. Thái và tôi đứng ngóng xem có đoàn người nào tản cư về không. Nhưng chắc thấy lính Mỹ lên nhiều quá, họ không dám đi nữa. Má tôi rối rít giục làm hầm, bà quên là chúng tôi chưa có một bao cát nào. Ðoàn lính đi tới gần trưa mới hết. Chúng tôi yên tâm dọn ra bàn ăn. Lâu lắm mới có một bữa ăn đàng hoàng như thế. Dưới mợ Giáo vẫn tiếp tế thức ăn lên đều đều. Hôm nay chúng tôi có món thịt kho với đu đủ sống. Dì Vạn hà tiện thức ăn, kho thiệt mặn, nhưng chúng tôi ăn vẫn thấy ngon như thường. Má tôi hỏi thăm ở trên Từ Ðàm ăn uống ra sao thì Hà nói nhờ có ông Minh nên ăn uống sướng lắm. Ôn đi về là có thịt có rau. Nhưng mấy hôm nay đánh nhau quá, ông bận đi tải thương, nhà lại hết thức ăn, mấy đứa nhỏ đã bắt đầu khóc.

Ăn cơm xong, Thái đi bộ xuống tận Mù U, nghe nói dưới này có họp chợ. Nhưng chỉ mới tới Trường Bia thì đã bị lính đuổi lên.

Ông Minh giữ đúng lời hứa, ông về lại thật. Ăn cơm xong, chúng tôi sửa soạn nghỉ trưa thì ông dắt xe đạp vào sân. Cả nhà ùa ra đón ông vào nhà:

"Sao ôn, tụi trên nớ răng?"

"Yên hết, không răng hết. Thầy Lễ nghe tìm được ra bác với cả nhà, thầy mừng lắm."

Hà lăng xăng:

"Con lên với ôn. Ðường ra răng ôn?"

"Thì vẫn đi ngả núi. Bắn nhau quá chừng. Tao phải cột hai vạt áo lên vác xe mà chạy."

Hà có vẻ hứng khởi:

"Con đi với. Con sửa soạn đi với ôn nghe má."

Má tôi lo lắng:

"Liệu đi được không con?"

"Ðược, được mà."

"Rứa răng Lễ nó chưa về?"

"Ði được là người tay không chân rời, chớ nó vợ con đùm đề, lại con Hy bị thương mần răng mà đi."

Rồi ông nói tiếp:

"Hà sửa soạn đi. Vân rót cho ôn chút nước."

Dì Vạn hỏi:

"Ôn có đem gạo theo phát không?"

"Có chớ. Có cái túi đó."

Hà đã sửa soạn xong, nó dắt xe đạp ra rồi cùng với ôn Minh đi lên Từ Ðàm. Má tôi lấy một ít thức ăn bắt Hà đem lên trên đó. Hà nói tối về thế nào cũng có bao cát. Vậy là Thái với tôi kiếm chỗ đào hầm. Chúng tôi định đào ngay trước sân. Thái bắt đầu công việc. Chúng tôi phá cái hầm cũ làm thành cái hầm mới khác.

Buổi chiều hôm đó, Hà về một mình, không có ông Minh, nó cũng không đem theo xe đạp. Ði theo nó có hai người sinh viên, mặt mày xanh xao, tóc tai rối bù như người sống từ một nơi thiếu ánh sáng mặt trời đã lâu. Hà nói:

"Ðây là mấy anh sinh viên, anh Chữ với anh Hát."

Má tôi hỏi:

"Làm răng mấy anh đi được mà Lễ chưa chịu đi."

Hà kể:

"Trốn đi đó chơ má. Họ canh dữ lắm. Anh Lễ đi thì họ biết liền. Con phải giả vờ đi vô đi ra cả chục lần, rồi mới đem mấy anh đi được."

Thái hỏi:

"Rứa họ không thấy hay răng?"

"Có, có cái tên gác trước cửa trông thấy. Tao sợ bất chết, sợ nó bắn. Nhưng thấy nó không nói chi cả. Nó nhìn theo."

Thái đùa:

"Chị có nháy mắt với hắn không?"

"Khỉ, sợ bất chết còn chọc. Mà tên đó còn trẻ, hắn tử tế lắm."

"Hắn có khi mô nói chuyện với chị không?"

"Không, ít lắm."

"Nó nhìn chị không?"

"Khỉ."

"Rứa là nó mê chị rồi."

Hai sinh viên gượng cười. Má tôi mời:

"Mời vô trong nhà, đừng đứng ngoài ni mà họ dòm ngó."

Hà đi dẫn đầu:

"Vô đi, vô nhà nghỉ đi."

Hai người sinh viên khệ nệ ôm mỗi người một bao cát to tướng. Gần năm trăm cái bao. Làm hầm đủ rồi. Hà nói. Má tôi hỏi sao ông Minh không đưa xuống. Hà nói ông bận đi tải thương. Mỹ tới cầu Bến Ngự rồi, nhờ Mỹ tới cầu nên quân giải phóng rút bớt lên ngả núi mà nhiều người mới chạy thoát được. Hà cho biết trên Từ Ðàm, đại bác câu như mưa, càng ngày càng dữ dội.

Ngay chiều hôm đó, cả nhà hiệp lực đào hầm lại. Mãi tới ngày hôm sau hầm mới dựng xong. Cái hầm cũ ở trong nhà vẫn còn giữ lại vì nhà quá đông. Chúng tôi đã mua được ít thức ăn, và mỗi lần ông Minh xuống chúng tôi lại gửi lên được một ít tiếp tế cho trên gia đình anh chị.

Cách ngày sau, một gia đình ở Từ Ðàm bạo gan đi ngả Tây Thiên, trốn về được An Cựu. Nhà này gánh gồng theo được nhiều thứ lắm, vì hai vợ chồng ông ta là chủ một quán tạp hóa. Ngang nhà tôi, họ tràn vào và xin ở tạm. Má tôi bằng lòng ngay. Họ chiếm ngay căn nhà bếp, lật đật giở hết cửa ra làm hầm. Ông chủ nhà này còn đem theo được cả xe gắn máy, cả dầu hôi, ông có đứa con gái bằng tuổi Hà. Vậy là hai cô nhỏ bàn nhau tìm cách trở lên Từ Ðàm, liên lạc với những người còn kẹt lại để trốn về An Cựu.

Ba bốn lần đi về không, mới có một lần đi lọt được. Anh Lễ tôi nhắn về là thế nào cũng thoát xuống An Cựu, nhưng đợi cho quân giải phóng rút bớt đã, sợ họ để ý.

Má tôi sốt ruột nhất, suốt ngày ngồi đứng không yên. Bà đi ra đi vào hỏi thăm những người từ phía Bến Ngự, Từ Ðàm tản cư về. Ông Minh bị cắt đứt liên lạc trong mấy hôm. Ðường núi đại bác câu nhiều quá, Hà và cô gái nhỏ tên Nga không dám mạo hiểm nữa. Nhưng vài ngày sau, ông Minh trở lại, ông vất chiếc xe đạp gẫy ghi đông ra giữa sân, rồi vừa thở vừa đi vào nhà. Má tôi hỏi ngay:

"Răng, trên đó ra răng rứa ôn?"

"Nguy lắm. Họ dàn quân, sắp đánh nhau rồi. Ðại bác bắn như mưa, chừng vài bữa nữa là nát hết."

"Trời ơi, rứa vợ con thằng Lễ ra răng hả trời."

Ông Minh thở dài:

"Tui cũng đương lo. Dù răng cũng phải cứu gia đình nó."

"Rứa ôn đi ngả mô về?"

"Ði dọc mé sông, đạn bắn như mưa. Người chạy loạn bị thương đầy. Tui vừa chở một người bị thương tới bệnh viện Huế rồi vô đây. Bên ni yên rồi, đi lại được rồi. Nơi bưu điện, nơi ngân khố còn chình ình mấy xác Việt cộng chân bị cột nơi đại liên, thấy ớn quá."

Hai anh sinh viên chạy ra, ông Minh nói:

"Ủa, tụi bây chưa ra nhà thương. Ra nhà thương mà giúp đỡ dân chơ. Ngoài nớ yên rồi có chi mô."

Ông quay lại Hà:

"Con đi tìm coi có ở chỗ mô sửa được, sửa cái ghi đông xe cho ôn con."

Hà vác xe đi rồi vác xe về:

"Ðã có ai mà sửa. Ôn lấy xe con mà đi."

"Ừ, thôi, bác cho tui miếng trầu. Tui phải đi chừ đây."

Má tôi lại gửi ít đồ ăn lên Từ Ðàm. Mấy ngày nay ở Trường Bia đã có chợ, người ta hạ cả heo để bán thịt, có rau dưới chợ Mai gánh lên bán. Tôi cầm tay Hà đưa ông Minh ra tận ngoài đường. Hà có vẻ dùng dằng, cứ dặn ông hoài:

"Ôn, nhớ rảnh là xuống đây nghe ôn. Ôn đừng ở trên nớ nữa."

Ôn Minh quay lại mắng Hà:

"Con nhỏ ni hư thiệt. Ðừng có buồn, ôn còn lo cho nhiều người trên đó nữa chơ. Ðể ôn đưa anh chị với mấy cháu về cho. Yên trí, yên trí."

Ông nói xong, trèo lên xe đạp, đạp thẳng ra phía cầu An Cựu. Thái chạy ra, ba chị em lại đi bộ ra ngả cầu. Mỹ đã gác ở đây, nơi đồn vận tải cũng có lính gác. Khu vực chúng tôi hoàn toàn yên rồi, chỉ lo cho anh chị tôi đang ở khu nguy hiểm nhất. Các thanh niên chạy loạn trở về đã đạp xe đạp đi ra ngoài trường Kiểu Mẫu coi đánh nhau bên phố. Chiến trận phía bên kia có vẻ ác liệt lắm. Chắc phía trên Từ Ðàm cũng thế. Chúng tôi đang đi bộ thì gặp một đoàn người từ phía cầu đi lại, người đi xe có, đi bộ có. Có tiếng xe gắn máy dừng lại sát chị em tôi. Tôi ngẩng lên nhìn và kêu mừng rỡ:

"Anh Trai."

Ông anh họ của tôi đang ngồi trên xe gắn máy, mừng rỡ hỏi thăm tíu tít:

"Lễ về được chưa? Nhà yên hết há?"

Tôi buồn bã:

"Nhà yên nhưng anh chị Lễ còn kẹt trên Từ Ðàm."

Anh cười. Tính anh vẫn vui nhộn như thế đối với chúng tôi:

"Anh về nhà rồi. Tới chơi nghe. Ðừng có lo cho Lễ, không răng mô. Có tin chi cho anh biết hí."

Anh định dợm đi, rồi lại thắng xe lại:

"Ê, tụi bây, tao có cái ni."

Anh đưa tay vô túi áo măng tô. Có vật gì phồng lớn ở trong đó. Hà đưa tay móc túi lôi ra một quả hột vịt lộn còn nóng. Anh lôi tiếp mấy quả nữa:

"Mỗi đứa một cái hột vịt lộn."

Trước khi đi, anh dặn:

"Ðừng có ra ngoài cầu. Mỹ nó gác nó bắn tùm lum đó. Người ta chạy loạn khóc như ri ở ngoài."

"Ở mô chạy xuống?"

"Anh cũng chạy bất chết, không có hỏi."

Có mấy tiếng súng nổ lẻ tẻ, Thái kéo tôi đi về.

Ngay hôm đó, Bé xuống nhà, giúp chúng tôi đắp đất thêm lên hầm và nói là sẽ đi trình diện. Nó nói trong ngày mai sẽ đưa gia đình về dưới Phù Lương vào trại tỵ nạn, vì nhà đã hết gạo ăn. Thái cũng nóng ruột đòi đi trình diện. Một vài người lính địa phương đạp xe đạp qua cho biết tin tức là quân đội đã đóng ở hữu ngạn, dẹp xong xuôi Việt cộng rồi, dân chúng hãy trở về và ai là quân nhân, công chức phải đi trình diện ngay. Có thể lên Tòa tỉnh hoặc ở trường Kiểu Mẫu cũng có văn phòng. Vậy là Thái thay quần áo đi ngay, mặc dù má tôi và tôi ngăn trở hết sức cũng không được.

Hai tiếng đồng hồ sau Thái trở về, nói là dường như phía hữu ngạn đi được rồi, quân Mỹ và Việt đã đóng hết. Bên phố bắn nhau như mưa, lửa bốc mù trời. Ở Từ Ðàm vẫn chưa dẹp xong, quân Việt Mỹ vẫn chưa dám xông qua cầu Bến Ngự, hay cầu Nam Giao. Dân chúng chạy loạn ở bên kia cầu kêu khóc như ri. Thái còn kể là ở trên tòa tỉnh, trên Nha đại biểu, còn đầy xác Việt cộng chưa ai chôn. Hai anh sinh viên từ giã gia đình chúng tôi để đi ra nhà thương Huế săn sóc những kẻ bị nạn. Thấy hợp lý, chúng tôi cũng không giữ. Tôi hỏi Thái đã trình diện chưa, Thái nói rồi, ngày mai đi lĩnh vũ khí và công tác. Thái cho biết cấp chỉ huy của hắn đã bị giết, một người đàn bà khác, có chức vụ nhỏ trong đoàn cán bộ xây dựng nông thôn bị chặt đầu, cắt hết tay chân. Tòa tỉnh vắng ngắt và hình như ông tỉnh trưởng cũng đã bị giết. Nhiều tin đồn lung tung ghê gớm lắm.

Cũng ngay chiều hôm đó, Thái đi một hồi, khi trở về, nhờ tài ăn nói hoạt bát, hắn đem về cho nhà nửa bao gạo. Má tôi nhìn bao gạo mừng đến chảy nước mắt. Tôi thì từ hôm liên lạc được với sở một lần rồi bị kẹt đường mất liên lạc luôn. Tôi mượn cái xe gắn máy của gia đình người ở tạm căn nhà bếp, rủ Thái xuống Thanh Lam một lần nữa. Lần này may mắn hơn, tôi liên lạc được với Sài Gòn và yên trí một trăm phần trăm là gia đình tôi vẫn yên ổn. Tôi chỉ chờ có máy bay là thoát được. Một ngày nữa trôi qua, Từ Ðàm vẫn kẹt trong khói lửa, bom đạn, và chúng tôi hoàn toàn không biết tin tức gì của anh tôi hết. Rồi những người ở Bảo Quốc chạy về, những người ở Bến Ngự chạy được về. Ông Minh cũng biệt tăm dạng. Ai lo việc người đó, tôi cố dò hỏi hết sức, nhưng không có kết quả. Hai ngày sau, một cậu em đi ngang qua, ghé thăm, cho hay tin cậu Ðội Hòa đã chết. Cậu Ðội Hòa là người điều khiển ban nhạc đại nội. Cậu đã già nhưng vẫn còn khỏe lắm, nhà cậu ở sát dưới chân bực cấp chùa Bảo Quốc. Một túp lều tranh đơn sơ, trước sân bày đầy chậu hoa, chậu kiểng. Trong nhà cậu, đủ các thứ đàn, từ những cây đàn thật cổ, tới những cây đàn mới nhất. Tôi thường ao ước được cậu cho một chiếc đàn tranh như thủa nhỏ cậu vẫn nói:

"Con học được, cậu cho cái đàn hồi trước của ngài ngự đàn, ngài đàn hay đến nỗi ma nó đứng ngoài nó nhịp."

Nhưng tôi lại không biết gì về quốc nhạc, và cũng không dám xin cậu chiếc đàn quý giá đó.

Bây giờ cậu Ðội Hòa đã chết. Cậu chết ở đâu? Trong lúc chạy loạn hay ở nhà? Còn số phận những cây đàn, túp lều tranh nữa. Tôi run giọng hỏi cậu em. Khánh kể là cậu Ðội Hòa chạy loạn tới trước nhà Khánh ở gần bưu điện. Ở đó đang yên, bỗng một trái đại bác bắn sai rơi xuống. Cậu chỉ trúng có một miểng đạn nhỏ nơi thái dương, và cứ thế, cậu nằm xoải người, tâm trí rất tỉnh táo, đợi máu chảy hết, khô người là chết. Tôi ứa nước mắt. Tôi đã khóc quá nhiều. Trước biến cố Mậu Thân, tôi đã khóc cho cái chết của ba tôi. Trong lúc thành phố tan nát, tôi đã khóc cùng với bao nhiêu người, bây giờ tôi khóc cho ông cậu nghệ sỹ hiền lành, thường cố làm vẻ nghiêm trang, cổ xưa trước mặt con cháu. Và những cây đàn nữa, bao nhiêu vốn liếng của cậu tôi, cũng là những vốn liếng cuối cùng của quốc nhạc, thôi thế đã theo cậu chôn vùi trong khói lửa.

Má tôi cũng ngồi lặng người đi một giây. Chắc má tôi nhớ lại thời nào cùng ở với cậu trong hoàng thành rực rỡ. Những tiếng đàn, tiếng phách. Những buổi sáng nhạc nhã vang lừng. Những áo mũ, những thanh âm ngày vua ngự triều. Má tôi cũng từng học đàn với cậu thủa nhỏ và được cậu che chở cho trong những lúc ông ngoại giận dữ vì má tôi không có khiếu về âm nhạc, học dở hơn cậu.

"Mà có chắc là ông Ðội Hòa thật không, hay con nghe ai nói lại?"

"Không, chính mắt con thấy mà. Ông chết trong nhà con."

Tôi nắm chặt bàn tay má tôi. Bàn tay má tôi run run. Mãi lúc sau, má tôi mới nghẹn ngào:

"Rứa còn bà thì răng?"

"Dạ không can chi, bác gái còn sống."

Má tôi quay sang tôi:

"Mần răng mà đi đón mợ con về đây."

Nhưng Khánh lắc đầu. Ở ngoài đó hay ở đây cũng có thể yên ổn mà cũng có thể ăn đại bác rơi lạc bất cứ lúc nào. Với lại chắc gì mợ tôi đã đi. Khánh cho biết là gia đình cậu tôi ra khỏi nhà trong lúc căn nhà còn đang bốc cháy. Cậu tôi vừa quay lại vừa kêu trời kêu đất, muốn lao trở vào để cùng cháy với mấy cây đàn. Người ta phải lôi cậu tôi đi. Từ đó cậu không nói với ai một câu nào cho tới khi cậu trúng miểng đạn chết.

Như vậy là hết, từ người già cả, cổ xưa nhất như cậu tôi, tới đứa nhỏ lai Mỹ đều đã bị quật chết trong trận chiến. Mỗi ngày có bao nhiêu tấn bom đạn, đã trút xuống đầu thành phố Huế. Mấy ngày nay, máy bay bay nhiều vô số. Ðứng ngoài quốc lộ, chúng tôi có thể nhìn thấy những chiếc phản lực liệng nhanh như chớp và thả xuống từng loạt bom, tiếp theo những tiếng nổ, dù dội xa, nhưng vô cùng kinh khủng. Ra xa hơn, đứng ở bên này sông nhìn sang, chợ Ðông Ba trở thành bình địa, nhà cửa bên phố như quấn chặt trong đám khói mù. Mỗi tiếng nổ, cát bụi, gạch ngói lại bay tơi tả như một trái pháo khổng lồ nổ tung xác.

Má tôi nghe tin cậu Ðội Hòa mất, rồi bặt luôn tin tức ông Võ Thành Minh, bắt đầu hoảng hốt. Ðôi khi đang ngồi ăn cơm, bà bỏ chén đũa ôm mặt khóc. Tôi sợ đầu óc má tôi trở nên bất bình thường. Trong hoàn cảnh này, ai cũng có thể điên được. Như một người quen cũ của gia đình tôi chạy loạn về ngang qua, má tôi níu lại. Bà ta đang khóc mùi mẫn, đi vào nhà kể chuyện chẳng có đầu đuôi gì hết. Rồi bỗng bật cười:

"Chưa khi mô tui nhìn thấy đám cháy to như rứa. Người chết cháy cứ như heo quay."

Cười được rồi, bà ta ngạc nhiên và lại ôm mặt khóc. Bà ta điên được từng phút ngắn.

Trưa hôm sau, Thái đã liên lạc được với đoàn của nó. Khi trở về, Thái báo tin:

"Người ta ở Từ Ðàm, Bến Ngự chạy về đông lắm. Phía mình đã gọi bằng máy bay, khuyên dân hãy chạy để quân đội tràn lên đánh địch."

Má tôi nhảy choi choi như một đứa trẻ con:

"Rứa há. Ðứa mô đi đón. Ði đón liền."

Tôi, Thái và Hà tình nguyện đi ngay. Chúng tôi ra tới cầu An Cựu. Tôi đoán chắc anh chị tôi có đi cũng chỉ đi được đường bờ sông, quân giải phóng sẽ rút lên phía núi, và ở đó, chắc súng đạn đang rền trời. Chúng tôi đi bộ ra cầu. Nhiều người chạy loạn quá. Họ gồng gánh, bỏ cả trẻ con vào thúng mà gánh chạy. Thái la cà lại hỏi, nhưng không ai muốn trả lời, hoặc có trả lời thì câu trả lời cũng chẳng giúp ích gì được chúng tôi. Mấy anh lính Mỹ gác ở hai đầu cầu nhìn đoàn người chạy loạn lôi thôi lếch thếch cười với nhau, chúng nheo mắt, làm trò, đôi khi đưa súng lên bắn chỉ thiên dọa nữa. Ðoàn người nghe tiếng súng là bỏ chạy, những tràng cười thích thú nổi lên đằng sau lưng.

Người chạy với chó, chó chạy với người. Những con chó ở đâu chạy theo đoàn người mà nhiều thế không biết. Một con chó đen bị những bước chen lấn, chạy tràn xuống một đầu cầu mép sông. Bỗng một phát súng nổ, con chó kêu một tiếng thảm thiết, lăn tròn và rơi xuống nước. Tiếng cười ồn ào nổi lên. Mấy người Mỹ đen, Mỹ trắng đứng trên cầu tiếp tục bắn ngăn không cho con chó lội lên bờ. Con chó cứ xa dần bờ, kêu oẳng oẳng, hết sức thảm thương. Những viên đạn vẫn bắn tới tấp nhưng hình như không định giết con chó, mà chỉ giữ không cho nó vào bờ. Có những viên đạn bắn trệch lên bờ đường, những viên khác dội xuống nước. Ðoàn người tản cư chạy tới hỗn loạn, kêu khóc rền trời. Tiếng kêu khóc càng to thì tiếng cười của một số người Mỹ bên kia sông cũng càng lớn. Ngã xuống rồi đứng dậy, đứng dậy rồi chúi nhủi. Dân tộc tôi đấy sao? Con chó đang cố lóp ngóp lội vào bờ tìm sự sống đó sao? Ðáng thương cho dân tôi, nước tôi, thân phận người dân không bằng một trò đùa, không bằng một con chó. Tôi cúi xuống nhặt hòn đá cầm chặt trong tay. Tôi bóp chặt hòn đá như bóp chặt tim mình. Quăng đi, liệng vào mặt chúng. Ðồ dã man, tàn bạo. Trong một lúc, nhìn đoàn người lúc nhúc chạy, la khóc, sợ hãi, tôi bỗng uất hận tràn người. Dân tộc da vàng nhỏ bé thật, nhưng còn gì béo bở nữa đâu? Con chó chạy rong dài trong bao ngày đã khô nước miếng, đã lở loét, rụng lông. Tôi đưa hòn đá lên. Liệng đi. Liệng vào mặt chúng rồi ra sao thì ra. Nhưng không, hòn đá mà làm được gì! Con chó đã xa bờ lắm. Nó cố kêu lên mấy tiếng nữa, rồi hai chân trước không phải bơi mà đập nước lung tung. Tôi thả rơi hòn đá xuống đất. Ðoàn người la hét khóc lóc đã đi qua được đoạn đường, một vài gói đồ rơi lại không kịp nhặt. Ðoàn người khác tiếp tục đi tới. Con chó bây giờ đã chìm cả mình xuống nước, mặc cho giòng nước lặng lẽ cuốn đi cùng những giòng máu đỏ thấm hồng mặt nước sông xanh. Tôi nuốt nước miếng, cổ họng khô đắng, nước mắt như muốn trào lên. Thái đứng cạnh tôi im lặng. Mặt nó và Hà cùng tái nhợt trong một nỗi thống khổ, nhục nhã như không bao giờ gột rửa được.

Một bàn tay đen đui đưa lên vẫy chúng tôi. Một hộp thịt ném tới lăn lóc dưới chân. Không biết nghĩ sao, Thái đá mạnh vào hộp thịt. Hộp thịt lăn lóc rơi xuống sông và chìm nghỉm. Vài tiếng cười khả ố vang lên. Tôi đưa khăn lên chùi nước mắt, nghẹn ngào bảo các em:

"Mình về đi."

Trước khi đi, tôi lại nhặt viên đá cầm trong tay để rồi không làm gì hết. Chỉ một viên đá này mà đổi tới ba phát súng, ba mạng người, dám lắm. Lúc này, ai chả có thể là kẻ địch da vàng dưới lối nhìn của những con mắt xanh.

Khóc lên đi, gào to lên nữa đi, khóc với quê hương yêu dấu đang quằn quại, đang gẫy xương sống. Ðoàn người đi qua, rồi đoàn khác tiếp tục. Những đôi mắt vàng úa, thất thần, những bàn tay níu chặt bọc quần áo, gia tài còn lại và đi mãi. Cỏ đã cháy, cây đã ngã, nhà đã sập. Giòng sông xanh thơ mộng mùa xuân đã loang đầy máu người, máu chó. Ðống gạch càng ngày càng cao. Hòn đá cầm chặt trong tay để làm gì. Tôi ném nó vào một ngôi nhà đổ. Hòn đá mất tăm luôn dấu vết.

Cùng buổi sáng hôm đó, tôi nghe thêm được nhiều nguồn tin lắm. Bên phố coi như đã thanh toán gần xong. Cầu Tràng Tiền đã gãy, công binh Mỹ đang cố gắng bắt tạm nhịp cầu khác để chuyển quân qua, và súng đại liên, tiểu liên, máy bay bắn xuống như mưa trên những căn nhà đổ nát. Ở phố, người ta không dám chạy thoát ra đường, từ nhà này, dân chúng đục thủng tường qua nhà khác, và cứ thế, họ thoát về ngả Gia Hội, hoặc có người chạy ngược lên Kim Long. Người ta nói tới cái chết của ông Tinh Hoa, chủ hiệu sách, ông đói và khát quá, chạy băng ra đường. Trước khi ra, ông đã nghiên cứu một lối chạy, chạy xiên xẹo, ngang qua ngang lại theo chữ chi để tránh đạn. Nhưng đạn vẫn bắn tới và ông ngã sấp, chết liền tại chỗ. Người đoán là Việt cộng bắn, người đoán quả quyết là Mỹ bắn, nhưng dù ai bắn thì ông ta cũng đã chết. Tôi nghĩ tới những người đang mắc kẹt ở Từ Ðàm, ở Thành Nội. Toàn thành cao bao xung quanh, cửa Chánh Tây là lối tiếp quân của Việt cộng, phía các cửa Thượng Tứ, Ðông Ba, cửa Sập thì đạn máy bay, đạn Mỹ bắn như mưa. Có bao nhiêu người đang quay quắt, quằn quại trong đó. Những chiếc hầm kiên cố nhất chỉ có thể chịu đựng nổi với những cỡ súng nhỏ, làm sao chịu thấu với những quả hỏa tiễn, những tấn bom hằng ngày trút xuống. Còn thành nội cổ kính nữa, di tích cuối cùng của một thời lịch sử, với những cành vàng điện ngọc, với những chiếc bình bằng sứ điểm hoa xưa cổ hàng trăm đời vua, với chiếc ngai vàng bỏ không nữa. Thôi, súng Nga Sô, Tiệp Khắc, súng Mỹ, đã san bằng, đạp nát một thành phố của cổ kính, của lịch sử. Không bao giờ còn dựng lại được nữa. Tôi không hy vọng gì nữa. Ngày thường, tôi ít để tâm đến vấn đề này, nhưng lúc này, nhìn những tấn bom trút xuống thành nội, lòng tôi đau thắt lại. Má tôi đã từng kể chuyện trong hoàng cung thời trước. Nào lầu vàng điện ngọc, nào nơi Ngài ngự, nào nhạc ban mai, chuông buổi tối. Nào ngày đưa đám Khải Ðịnh, có cọp bạch về chầu. Bao nhiêu giai thoại, bao nhiêu huyền sử trong những câu chuyện thủa nhỏ, đẹp và hay hơn cả truyện cổ tích.

Quá trưa hôm đó, một chuyện bất ngờ xảy ra nữa, bất ngờ đến nỗi cả gia đình chúng tôi bàng hoàng sửng sốt, bấu da bấu thịt xem chuyện có phải thực hay trong mơ. Ăn cơm trưa xong, cả nhà đang ngồi kể lại chuyện mỗi người nghe được thì có tiếng gọi ngoài cửa:

"Mệ ơi, mệ."

Má tôi quên cả xỏ guốc, chạy ùa ra sân. Con Mai, người làm của anh chị Lễ tôi đang khiêng một đầu, đầu đằng sau là một người đàn ông lạ còn trẻ, ở giữa là Hy, em gái chị dâu tôi. Hy nằm trên cái võng và đang cố ngóc đầu lên để nhìn. Con Mai vừa kêu: Mệ ơi, mệ ơi, vừa đưa một tay vẫy rối rít. Hy được khiêng vào nhà, con Mai chỉ ra đường vừa khóc vừa nói:

"Mệ ơi, thầy Lễ đang chạy đằng sau, đang ở ngoài đường."

Tôi chạy băng ra trước, má tôi chạy theo, rồi Hà, rồi Thái. Ngay trước ngõ, anh tôi đã tới nơi. Anh tôi đang đẩy một chiếc xe sắt trẻ con, đi chân không, tóc tai rũ rượi. Trên xe đặt hai đứa con trai mặt mày đầy thuốc đỏ, và đang mếu máo khóc.

Tôi ôm choàng lấy các cháu. Cháu gái lớn Ti Na đang chạy lúp xúp đằng sau cũng nhào vào lòng tôi. Nước mắt tôi trào ra. Các cháu tôi cũng khóc thút thít. Anh tôi chỉ lui đằng sau:

"Chị đang ở đằng sau nớ."

Tôi rời tụi nhỏ, chạy tới phía cầu. Nhưng chỉ ngang nghẹo Ðường Xay, tôi thấy chị dâu tôi đang ngồi bệt xuống đất, chiếc nón tơi tả đặt một bên. Chị bế đứa con nhỏ mới sinh, mặt mũi cũng đầm đìa nước mắt. Tôi ôm cháu nhỏ, dẫn đường. Chị dâu tôi không đi dép, mệt mỏi đi theo sau. Vào tới nhà, anh chị tôi đứng trước bàn thờ ba tôi. Chị tôi gục đầu vào bàn thờ mà khóc. Mấy đứa nhỏ khóc theo. Má tôi, tôi và Hà cũng chảy nước mắt mừng mừng tủi tủi.
Một lúc sau, anh chị tôi mới tỉnh táo kể chuyện chạy loạn được. Tôi hỏi thăm anh đi ngả nào, anh tôi kể:

"Ðạn trên nớ bắn dữ quá. Việt cộng không thể kiểm soát được nữa. Quân Mỹ đã tới cầu Nam Giao và Bến Ngự. Ngày hôm qua, lúc chập tối, một chiếc hầm sập, đè chết một đứa nhỏ chắt của cụ Cường Ðể, một đứa bị thương. Anh bế hai đứa nhỏ đầy máu me. Bà Xếp bế một đứa. Tụi nhỏ cho đi trước cầm cờ trắng, kéo xuống cầu Bến Ngự để đưa mấy đứa nhỏ ra nhà thương. Vài người chạy theo nữa, tới cầu Bến Ngự, anh tỏ ý xin qua, nhưng thấy đông quá, bọn Mỹ nghi ngờ, giơ tay xua bắt trở lại. Cả đoàn chưa kịp quay lại, họ đã bắn vào chân, sướt bên tai, trên đầu. Lũ nhỏ khóc quá, cả đoàn phải kéo lên. Ðứa nhỏ chịu không được đau đã chết."

Chị dâu tôi nói thêm:

"Anh gan lắm má. Ôm hai đứa nhỏ máu me đầy mình. Anh giơ áo cho má coi."

Anh tôi đưa tay áo lên, những vết máu đã thâm tím lại. Anh tôi gầy nhom, hai mắt vàng khè và mặt không còn chút máu. Mấy đứa nhỏ đòi ăn. Hà lục lọi lấy cơm cho các cháu. Má tôi hỏi dồn:

"Trên nớ tan hết rồi hay răng con?"

"Ui, còn chi mà còn má. Nhà mình hư hết rồi. Có đem theo chi được mô. Mỗi cháu chỉ mặc một bộ quần áo. Mấy bữa súng yên, tụi con Mai nó qua, lôi được ít đồ gửi bên nhà thờ cụ Phan. Không biết nay mai, bàn thờ còn nguyên lành không nữa. Ðêm qua, súng còn như mưa, cứ tối là họ kéo về, giăng cờ dụ quân mình. Hai bên bắn nhau. Con chắc mai bên mình lên được trên nớ. Biết ở lại răng cũng chết, ông Minh khuyên tụi con nên liều mà đi."

Má tôi vẫn chưa ngớt xúc động:

"Con đi bằng ngả mô rứa? Ngả mô mà xuống được?"

"Ði ngả đường rầy má. Nhờ ôn Minh hết đó."

Anh tôi chỉ người thanh niên:

"Ôn Minh phải lên tới Tây Thiên nhờ anh đây xuống khiêng giùm Hy đi. Một mình con mắc ba bốn đứa nhỏ. Bê mới sinh còn đồ đoàn nữa. Ôn Minh lo hết, tội ôn quá."

Bê là tên của chị dâu tôi. Hà thắc mắc:

"Răng anh không nói ôn về một lần luôn."

"Ôn còn bận cứu thương, tải thương. Ôn nói ôn chưa đi được, ôn đi mà để lại bao nhiêu người kẹt trong vòng súng đạn, ôn không yên tâm."

Tôi rót nước mời người thanh niên uống. Anh ta khoảng ba mươi tuổi, nét mặt rắn rỏi. Anh tôi không ngớt lời cám ơn. Hà thì buồn rầu lo lắng cho ôn Minh không hết. Má tôi hỏi thăm những người hàng xóm. Chị Bê cho biết bà Xếp Mập đang đi ở đằng sau, con ở của bà bị thương nhẹ, đi cà nhắc, vừa đi vừa dẫn bà. Má tôi hết ôm đứa nhỏ này lại ôm đứa khác. Tội nghiệp, chúng như một đàn chim nhỏ bị đạn, nghe tiếng súng đại bác sau Trường Bia bắn đi cũng run lẩy bẩy, đưa tay che đầu.

Uống xong chén nước, người thanh niên nhất định đòi lên lại Tây Thiên. Má tôi mời ở lại, anh ta nhất định không chịu. Anh nói anh phải đi gặp ông Minh. Anh tôi lo sợ đường có gì bất trắc. Anh mượn một chiếc xe đạp, nói đi ngả núi Ngự Bình, chắc không sao. Má tôi ân cần dặn đi dặn lại nhờ anh thế nào cũng chuyển lời mời ôn Minh về.

Một lúc sau bà Xếp Mập tới nơi. Con ở vừa đi cà thọt vừa cầm tay bà. Vào tới sân bà đã khóc nức nở:

"Thầy Lễ đã tới chưa? Ðã tới chưa?"

Anh tôi ra đón bà vào nhà. Bà đặt cây gậy dựa vào chân ghế, nhìn quanh nhìn quất, thấy má tôi, bà lại khóc:

"Bác ơi, tưởng không còn trông thấy mặt nhau rồi chơ... Trời đất ơi, tự nhiên mà đất bằng nổi sóng... Nhà mình yên hết chơ bác."

"Bà ngồi đỡ mệt đi. Nhà yên hết. Lạy Trời lạy Phật."

"Nam mô A Di Ðà Phật. Tui cứ sợ cho họ bắt thầy Lễ na đi..."

"Tui ở dưới ni mà ruột như nung như nấu bà ơi..."

Má tôi cũng bật khóc. Hà thấy vậy khôi hài:

"Mẹ giải phóng đi mà các con giải phóng không giữ lại răng mẹ?"

"Ừ, Ừ... tụi nó chạy hết rồi. Bỏ cả cha lẫn mẹ."

Câu nói của bà làm cho mọi người đang rầu cũng bật cười, mà riêng bà, bà lại lau nước mắt:

"Thôi bác ơi, thấy nhau là quí rồi. Người còn của còn..."

Hà hỏi anh tôi:

"Trên nớ họ rút hết chưa?"

Anh tôi nhăn mặt:

"Thiệt tụi nó khôn hết sức. Nó rút đi hết rồi, chỉ còn để lại vài tên, cứ chạy góc này lẹt đẹt vài tràng đạn, tới góc khác lẹt đẹt vài tràng đạn. Quân Mỹ ở dưới cầu tưởng đông không dám tràn lên, chớ thiệt họ rút đi gần hết, chỉ để lại vài chục mạng cầm chưn rứa thôi. Nói thiệt tức cười, mấy tên ở lại bắn chọc để chặn quân Mỹ, còn đường lên núi họ sắp hàng rút quân, vừa đi vừa hát. Hình như họ đi tiếp viện mô ở cửa Chánh Tây."

Tôi hỏi thăm về một người bạn cũ, cũng là cháu nội của cụ Cường Ðể:

"Thạch Hà đã tản cư được chưa?"

"Chị Hà cùng núp trong nhà thờ cụ Phan. Bữa hầm sập, chị Hà mất một đứa.Thì anh bồng con nhỏ đó đi xuống cầu Bến Ngự, con Ti Na, Nô Răng cầm cờ trắng. Bà Xếp với mấy người nữa đi đằng sau nì. Mà nó bắn nơi chân đó. Chị Hà tản cư lên miệt Tây Thiên. Anh là nhờ có ôn Minh dò đường mới xuống đây được đó chớ."

Ðứa cháu nhỏ của tôi khóc:

"Cô, cô. Cây vú sữa nhà mình gãy, cháu hái được hai trái chín mùi."

Tôi vừa thương hại vừa buồn cười. Một cây xanh tốt hàng năm cung cấp bao nhiêu trái cây, nó không mừng, gãy rụi xuống, để chỉ lượm có hai trái thì đứa cháu tôi lấy làm thích thú.

Về tới An Cựu, anh tôi yên tâm hơn. Chúng tôi lo lắng tổ chức lại đời sống. Gạo chắc chắn sẽ không đủ ăn nếu tình trạng này kéo dài, nhưng gia đình chúng tôi cũng không thể về những khu tỵ nạn để lãnh gạo, lãnh tiền. Thái vừa lo đi trình diện, vừa lo chuyện mua gạo. Tôi lại đi liên lạc với sở để đợi máy bay vào Sài Gòn. Nhưng trước đó, tôi cũng phải lo cho Hy vì vết thương để lâu ngày, đang làm độc. Tôi chỉ cầu cứu ở sở, nhưng đường sá lại bắt đầu khó đi lại. Tôi đành rán chờ.

Chiều hôm sau, ở Từ Ðàm lại kéo xuống thêm mấy gia đình nữa, trong đó có gia đình một ông thầy cũ của tôi, và những người con cũng đã đi dạy học, những đứa cháu nhỏ. Anh Lễ đón họ vào nhà, người nào cũng đi chân đất, chạy tơi tả. Chúng tôi được biết thêm là sau khi anh tôi trốn thoát, Việt cộng lại về bắt một số thanh niên. Khéo trốn lắm mới thoát được. Ôn Minh hình như cũng bị họ giữ lại. Hà kêu lên thảng thốt: Ôn Minh mà cũng bị bắt hả?

Thầy Liên, thầy giáo cũ của tôi, đã già, lắc đầu tuyệt vọng:

"Tối qua họ còn bắn mấy thanh niên gần nơi trường học."

Má tôi hỏi:

"Trên nớ đã ngớt súng chưa?"

"Ôi, như mưa rào, càng ngày càng dữ. Chúng tôi liều chết để đi. Lạy Trời lạy Phật, về đây mới biết là sống."

Ngôi nhà chúng tôi bỗng đông vui hẳn. Ngay sáng hôm sau, mọi người lo làm hầm. Cứ mỗi gia đình một góc sân, tất cả các thứ gì còn lại trong nhà có thể giở ra làm hầm được, họ đều trưng dụng. Nhưng chúng tôi không phiền hà gì, nếu phải tháo cả chiếc nhà ra để làm thêm một cái hầm nữa, chắc ai nấy cũng hết sức vui vẻ.

Các nhà bên cạnh cũng lục đục kéo nhau về, làm hầm phòng đại bác. Chợ nhỏ họp ở trước con đường dẫn vào Trường Bia. Một vài quán ăn đã mở. Sức sống vun trồng thật nhanh, vừa mới mấy ngày, nhà cửa, làng xóm đìu hiu như không bao giờ còn có hơi thở nữa. Vậy mà chỉ qua hai ba ngày sau, dân chúng trở về. Ở đâu có người, có hơi thở là có quán, có khói, có bữa cơm. Nhưng cũng thê thảm lắm, cạnh đó, cách chừng một cây số, hai cây số, máu vẫn tiếp tục chảy. Buổi sáng đoàn lính biệt động, nhảy dù, thủy quân lục chiến vừa đi ngang qua quốc lộ, nét mặt còn đỏ hồng máu, buổi chiều, xác họ đã được khiêng trở về con đường cũ.

Mặc dù khu vực chúng tôi đã yên tĩnh, nhưng ban đêm, Việt cộng vẫn về bắt người. Ban ngày, lính Mỹ lên, gác đường, gác trong các khu vườn và nhìn sinh hoạt dân chúng với đôi mắt nghi ngờ, không mấy thiện cảm. Chỉ một tiếng động khả nghi là một băng đạn bắn vào hầm đầy người. Một tiếng súng nổ, cả một xóm nhỏ phía sau ruộng bốc cháy. Lính Mỹ đứng gác xua dân chạy ra khỏi nhà nhưng không được mang theo một thứ gì hết. Tiếng khóc la vang trời dậy đất. Người ta chạy ra khỏi nhà, đứng nhìn ngọn lửa. Dân chúng ở vùng này càng đông hơn vì những người tản cư mới đến. Những mũi súng của người Mỹ chỉ vào họ. Họ đành vừa khóc vừa chạy loạn thêm một lần nữa. Mỗi lần thấy lính Mỹ vào vườn là anh tôi kêu cả nhà và giục những người trong các hầm khác lên khỏi hầm và vào nhà hết. Thấy nhà chúng tôi đông, đàn bà trẻ con nhiều, họ không khả nghi gì hết.

Chắc chỉ có xóm tôi ở là dân chúng về sớm và đông nhất, ở các vùng khác cạnh đó, mặc dù đã yên ổn nhưng chưa ai dám trở về.

Lính địa phương thừa lúc chủ nhà bỏ đi, cạy cửa vào khuân hết đồ đạc. Nhiều người trở nên giàu có. Tôi đã từng thấy những người đàn ông khiêng cả xe Honda còn khóa đi ngang qua nhà. Tôi cũng trông thấy cảnh mấy anh lính nhảy dù ở xa đến rượt theo với người lính địa phương vì họ đang ôm đồ ở một nhà nào đó chạy ra đường. Một anh thủy quân lục chiến ở Sài Gòn ra đưa cho Thái xem một cây bút máy khắc hai chiếc tên lồng vào nhau. Anh kể, anh lượm được nơi xác chết một cô gái. Cô gái Huế nào chết cũng để lại một mái tóc thật dài, làm anh cứ ôm hết mối tiếc thương này tới mối tiếc thương khác. Một vài gia đình khác nữa cũng vừa thoát được ở Từ Ðàm về, cho hay là Mỹ đã qua được cầu Bến Ngự, nhưng chưa lên khỏi dốc, còn nằm chờ. Tôi nghĩ tới những trái đại bác sẽ dẫn đầu cho đoàn quân. Tất cả đã tan nát rồi, chắc sẽ còn dằn chặt xuống đất sâu nữa. Người ta nói tới những xác chết dọc đường. Những đứa trẻ không kịp chôn cất, vất bừa trong bụi cây, hay vùi giữa đống gạch. Ðám chó đói từ lâu bỗng được dịp no nê. Ai thống khổ, ai chết chóc mặc, chỉ có lũ chó là phè phỡn. Tôi để ý thấy quanh vùng tôi có nhiều chó xuất hiện. Ngoài việc phòng ngừa đại bác, phòng ngừa Việt cộng về bắt, còn phải trữ ít gạch để liệng chó nữa. Mỗi lần dọn cơm, bọn chó hầm hè ngoài vườn. Nhưng bọn chúng đông thì nhân số trong nhà chúng tôi cũng đông đúc không kém, chúng không thể tràn vào nhà được. Thái tiếc rẻ:

"Mấy hôm đói gần chết chẳng thấy con nào, không ông đã vồ lại, ông ăn thịt cho đỡ lòng."

Hàng ngày chúng tôi ra đường đứng nhìn xem máy bay thả bom bên thành nội. Những chiếc máy bay gầm thét như xé rách bầu trời buồn thảm. Những ngọn khói như núi vẫn tiếp tục bốc cao. Ở Gia Hội có một vài người thoát đi được, hỏi đến, họ vừa khóc vừa kể:

"Chết hết rồi, chết hết rồi. Họ đặt bộ chỉ huy ở trường Gia Hội, đấu tố, giết chết hàng ngày. Ghê lắm."

"Còn trong thành nội?"

"Chạy tản cư ra Gia Hội."

"Gia đình anh còn ai không?"

"Còn một mình tui. Qua chuyến đò mất ba ngàn. Thôi chào bà con cô bác."

"Vô đây tạm đỡ vài ba bữa rồi đi."

Nhiều người mời, nhưng người đàn ông cô đơn từ chối. Chắc ông ta muốn đi càng xa đống khói, xa máu me chết chóc càng sớm càng hay. Ông ta đi như chạy trên đường quốc lộ.

Một người khác kể:

"Chúng nó bắt đầu giết người dữ lắm rồi. Gặp đàn ông là bắn. Nghe ai điềm chỉ là bắn. Tui trốn hai mươi mấy ngày trên máng xối, có bữa đói quá, phải nhổ rêu mà nhai, lùa nước trên máng xối mà uống. Bà con coi, cái bụng tui phình ra như đàn bà bị báng. Tui phải về Phú Bài xin nằm bệnh viện."

Người ta còn kể cả một gia đình ở Gia Hội chết vì cái Ti Vi:

"Máy này để liên lạc với địch?"

"Dạ thưa không, cái máy Ti Vi để coi hát múa."

"Vặn lên nghe thử."

Mở máy, không thấy có hình ảnh hát múa. Một băng đạn, đàn bà trẻ thơ ngã gục. Một bản án được đắp lên: Ðể đồng bào noi gương. Ðứa nhỏ chết không kịp nhắm mắt. Hai đứa con của một người mẹ Việt Nam lai Mỹ, người mẹ đi Vũng Tàu để hai đứa nhỏ ở nhà cho chị vú. Ðây là con Mỹ Ðế, để lại sau có hại cho tương lai dân tộc. Không cần phí đạn. Hai cái đầu của hai đứa nhỏ bị đập vào tường. Óc, não, máu me phun tung tóe.

Vẫn còn những người bị thương được khiêng đi. Hoặc họ chạy loạn bị thương, hoặc họ tiếc của trở về trong lúc hai bên đụng độ, trúng đạn. Bao nhiêu căn nhà bỏ hoang, bao nhiêu của cải còn bỏ lại. Các anh giải phóng chỉ giải phóng xương máu và cầm nhầm những thứ nhẹ nhàng như đồng hồ, bút máy, những đồ vật nhỏ nhỏ, xinh xinh, hay ngộ nghĩnh. Phần còn lại dành cho kẻ thừa nước đục thả câu, bao nhiêu cũng không vừa. Người ta còn kể rằng, một thanh niên còn nhỏ tuổi, con của một ông chủ tiệm vàng, bị gù lưng, đã dắt trong mình mười mấy lượng vàng chạy trốn. Anh ta bị bắn chết ngay ở trên hố, một phát đạn không biết của ai, vàng cũng chảy theo máu, chỉ để lại xác người xấu số. Chưa hết đâu. Còn tàn sát, chết chóc nhiều nữa. Những người thanh niên, đàn ông bị Việt cộng nói ngon nói ngọt là đi học tập mười lăm ngày, mãi chưa thấy về và những người khác vẫn bị tiếp tục mang đi. Số phận những người này sẽ ra sao? Họ đã cố tình giữ dân lại, chắc để sẽ đem làm bia đỡ đạn trong lúc thế cùng. Nhưng dân chúng, phần chết chóc, phần bỏ trốn, chắc cũng chẳng còn bao. Những tiếng rú nửa đêm, những bản án, những tiếng súng giết người không lý do, làm sao để dân chúng dám ở lại, dám tin tưởng.

Hàng ngày tôi ra đứng bên đường, hy vọng trong đám người tản cư về, có ông Võ Thành Minh. Mới gặp ông có mấy ngày, tôi đã hết sức yêu kính ông. Ai hèn, ai can đảm trong cơn biến loạn này đều lộ diện ra hết. Hôm nay, nghe tin Mỹ đã tràn lên tới Từ Ðàm và hai bên đang đánh nhau, giành từng tấc đất, chắc ông Minh không còn có thể ở yên đó mà tải thương theo tinh thần hướng đạo của ông nữa. Không ai còn sức để sống đến hôm nay mà chết cho súng đạn. Tôi hy vọng ông Minh sẽ về. Họ bắt ông để làm gì? Chắc ông sẽ thoát được và tôi sẽ gặp ông trước ngày bỏ Huế. Tôi đã liên lạc được với sở và chuẩn bị ngày lên đường vào Ðà Nẵng. Nhưng sao tôi vẫn chưa muốn đi. Tôi chờ đợi ống khói khổng lồ vươn lên từ trong thành nội lụn dần. Nó phải lụn dần chứ. Một người đàn bà đã dẫn một đứa nhỏ đi trên đường quốc lộ vừa khóc vừa kể:

"Ối, bà con làng nước ơi. Nhà tui cháy, chồng tui bị bắt, rứa mà con tui cũng lạc."

Người ta tò mò hỏi bà:

"Rứa đứa nhỏ bà dắt theo là ai? Không phải con bà hay răng?"

"Con tui lạc rồi bà con ơi. Tui cầm nó nơi tay mà lôi mà chạy. Rứa mà khi nhìn lại thì không phải, gặp thằng bé này."

Người đàn bà lại tiếp tục khóc, tiếp tục kể và lôi thằng bé chạy. Người đàn bà gọi con, đứa nhỏ gọi cha mẹ nó. Cảnh trông thật tức cười nhưng cũng rớt nước mắt. Trên quê hương tôi, bao nhiêu đứa trẻ, bao nhiêu bà mẹ đã khổ như thế? Kể làm sao hết được. Một ngày nữa trôi qua, lại một ngày nữa đến. Khu An Cựu có vẻ yên lành hơn trước. Buổi sáng, tôi đã ăn được những bát cháo lòng heo, giò heo của những người bán hàng rong. Chúng tôi không còn phải chui rúc dưới hầm tối suốt ngày nữa. Nhưng không khí dường như độc địa hẳn. Mắt mọi người lúc nào cũng cay xè. Thuốc hơi cay của quân đồng minh rải khắp nơi để bắt những giải phóng quân còn sót lại. Ngay sau khu vườn cách nhà tôi vài căn, có một ngôi nhà bỏ không, một chiếc hầm bỏ không, người ta cũng bơm hơi cay, xông ra một giải phóng quân bị thương, bị đồng đội bỏ lại. Và khi lên nhìn thấy ánh sáng thì hắn cũng vừa thở hắt ra mà chết. Ở trong hầm, dù đau đớn, hắn cũng viết nhật ký, viết thư gửi cho mẹ và em. Ðiều đặc biệt là hắn có một lá thư nguệch ngoạc viết phản đối chiến tranh nữa: Khi tôi chết, tôi muốn gối đầu lên đất Bắc, dù chân tôi ở miền Nam. Tôi đã gây cảnh đổ máu ở thành phố này, tôi phải để máu của tôi lại để hòa cùng với dòng máu oan ức của dân Huế, của dân tộc tôi. Người lính Biệt động đọc xong mấy dòng trên, anh vội nhét lá thư vào túi, rồi lặng lẽ bế xác tên Việt cộng, xác một người Việt Nam, ra vườn. Anh đào một cái hố nhỏ và chôn xác người miền Bắc chết cùng với dân Nam. Anh nhìn quanh quất, tính lui tính tới để tìm ra phương Bắc làm chỗ gối đầu cho kẻ bạc mệnh.

Tôi muốn xin anh lính bức thư, nhưng thấy mặt anh lầm lì và vác khẩu súng nặng nề quá, tôi lại thôi. Chỉ một lát sau, khi ra ngoài lộ, tôi trông thấy chính anh lính đó ria một tràng súng vào một bụi cây. Không có người nào hết, ngoài một con chó ốm. Con chó chạy ra, mắt hực lửa, miệng nó đang tha một cục xương người. Thôi, tôi không muốn kể nữa. Người ta còn đồn là ở trong thành nội, xác chết của dân và của Việt cộng đã chất cao. Những người dân chạy loạn bị trúng đạn nằm chồng lên nhau. Những xác Việt cộng nằm đầy những hố, xác ở dưới mương, bên đường lều bều như cá chết mắc cạn.

Cũng từ hôm đó, ở phía Nam Giao, Từ Ðàm không còn ai chạy loạn về nữa. Hình như cũng chả còn ai để mà chạy. Họ đã bỏ đi, và số còn lại thì đã ở giữa hai lằn đạn rồi. Tôi mất luôn tin tức của ông Minh. Anh tôi thở dài mỗi lần nghe chị em tôi nhắc nhở tới ông. Má tôi mua được ít cau trầu vẫn để dành. Không hiểu căn cứ vào đâu mà má tôi tin là ông Minh sẽ bình yên vô sự.

Tôi thì tôi không tin được như thế. Có thể ông đã bị bắt đi như những lời đồn. Ông bị bắt đi cùng thầy Ðôn Hậu. Như vậy, có thể ông không bị giết. Có được không? Nhưng tôi vẫn nghi ngại lắm. Hai đứa bé con lai Mỹ thì tội tình gì? Một nhà sư như thầy Ðôn Hậu, một hướng đạo, một chiến sĩ như ông Võ Thành Minh. Trời ơi, sao giữa tiếng súng, giữa cảnh máu me, giữa bao nhiêu người chết oan ức, tôi lại cứ thắc mắc những điều như thế. Ðiều cần thiết là tôi phải làm sao để thoát khỏi Huế, để sống được, để trở về trông thấy các con tôi, gặp mặt chồng tôi. Tôi sẽ ra đi dù để lại Huế quay quắt, tan tành, đổ nát. Ðể lại má tôi, anh tôi, em gái, các cháu, bà con giòng họ. Có thể ở lại thêm một đêm, đến lượt tôi cũng sẽ bị bắt. Tiếng cú rúc, tiếng báo hiệu của tử thần vẫn còn mỗi đêm, khi xa khi gần. Tôi đem những điều suy nghĩ trên nói với anh tôi. Anh tôi cũng khuyên:

"Tìm được phương tiện, em nên đi ngay, đừng chần chờ. Về được tới đây, anh cảm thấy nhà mình đã yên tâm hơn rồi."

Nhìn thấy điều gì mà anh tôi dám quả quyết như vậy? Tôi nhìn lên bàn thờ ba tôi. Chị dâu tôi đã đốt hai ngọn nến, thắp một cây nhang lớn. Mùi hương thơm phức. Trong thành phố này, bao nhiêu ngôi mộ đang lạnh lẽo, đang vời nuối khói hương. Ba ơi, ba vẫn may mắn. Ðiều đó làm cho anh con tin tưởng phải không ba? Nếu ba gắng gượng sống thêm vài ngày nữa. Chuyện gì sẽ xảy ra cho ba? Tôi không dám nghĩ tiếp nữa. Huế ơi, một ngày tôi về chịu tang cha, chịu tang thêm cho cả thành phố. Trong biến cố này, bao bạn bè tôi lớp cũ đã ra đi. Ngôi trường Ðồng Khánh thân yêu, nơi dung dưỡng tuổi thơ ấu, tuổi lớn lên của tôi đã đổ nát tới chừng nào? Những cây phượng, những hốc cây đầy kỷ niệm nữa, sao tôi vẫn có cảm tưởng như những hốc cây kỷ niệm của tôi nơi sân trường đang ứa đầy máu. Tôi muốn được trông lại dòng Chúa Cứu Thế, nơi tôi đã tránh nạn những ngày đầu tiên, muốn ghé lại cung An Ðịnh, xem đống gạch đã khổng lồ như thế nào. Muốn tới Tân Lăng để coi căn nhà của chị U, để coi ngôi nhà thờ họ, còn nguyên vẹn hay đã đầy vết bom đạn. Những nơi tôi đã dung thân, tôi đã gửi lại một ít kỷ niệm. Những nơi đó tôi đã nhìn thấy máu, nhìn thấy sự chết, và cũng đã nhìn thấy sự sinh sản. Ôi, căn gác nơi nhà thờ, nơi đó đã sinh ra đời thêm được bao nhiêu em bé nữa. Giữa cảnh rẫy chết, tanh hôi, tiếng khóc ra đời của trẻ thơ vẫn vùng vẫy mạnh mẽ, vẫn vươn lên tột cùng sự kiêu hãnh của sức sống. Không chỉ nơi căn gác chuông của ngôi nhà thờ đó đâu. Gần một tháng trời nay, khắp thành phố Huế, trong hầm tối, giữa đường, bên bờ ao, bên những vũng máu đã nguội, những tay chân què quặt, còn bao nhiêu trẻ thơ khác ra đời nữa. Ðất lấp những tiếng kêu thống thiết thì đời cũng mở những tiếng khóc sơ sinh. Không, Huế sẽ không bao giờ tan nát, đổ vỡ tới như sự tận thế. Bên vòng lửa, cạnh bom đạn, những buổi chợ đã họp lại, kẻ sống sót đã trở về vòng quanh quẩn, lăm le đợi chờ. Và dưới mương bên đường, trong đất tối, bao xác chết mở mắt trừng trừng chờ đợi. Tôi gặp thêm một số người các nơi chạy về nữa. Từ Gia Hội, từ Bến Ngự, từ Kim Long. Vậy là Huế đã rỗng. Một người sống sót kể lại vì muốn cứu khoảng hơn mấy chục người mắc kẹt trong một xóm nhỏ, các anh lính đã phải hy sinh một số khá đông. Một người khác nói rằng chính anh vừa thoát được từ dưới địa ngục lên. Anh ta bị bắt đi. Một đoàn người bị bắt, một sợi dây thừng dài cột người này liền với người khác. Ðoàn người được dẫn lên phía núi. Tới một khoảng đất trống, một anh giải phóng ra lệnh mở giây trói cho mọi người, bắt họ đào hầm hố. Những hầm hố mới nguyên bên cạnh những cây cối còn xanh tươi. Ðoàn người được đứng sắp hàng lại. Một loạt đạn thi ân: Giải phóng. Một số người được chừa lại: Xô họ xuống hố và lấp đất đi. Những giọt nước mắt không ứa ra được, nóng như lửa chảy ngược xuống nung đốt ruột gan. Số người còn lại về sau cũng bị số phận như thế. Nhưng tôi, tại răng tôi may mắn thoát chết? Trời đất quỷ thần. Tôi thoát được mà về đây. Ông bà tôi đã cứu tôi. Trời Phật hay ma quỷ đã cứu tôi. Chào tất cả chào bà con cô bác. Tôi phải chạy trốn chúng nó. Tôi phải đi tìm vợ con tôi. Tôi đi trốn đây, bà con cô bác trốn đi. Trốn ngay đi. Người đàn ông kể xong chuyện xúc động quá chắc đã hóa điên rồi. Chúc anh được điên để quên. Ðiên được, thật sung sướng cho anh biết mấy.

Một người khác thì trái lại, vừa kể chuyện vừa khóc. Ông ta không điên mà rủi thay, còn quá sáng suốt để tràn đầy sự xúc cảm.

"Họ ở trong nhà tui mười mấy ngày. Nhiều người bị thương mang về. Nhiều người chịu không thấu đã chết. Bà con biết không? Họ cũng biết thương người, họ cứu thằng còn tui bị miểng đại bác. Một anh lính Bắc Việt trẻ đã than thở với tui: Các bác nghĩ lại đừng ghét bỏ tụi cháu. Tụi cháu chỉ biết thi hành theo lệnh trên. Tụi cháu cũng xa gia đình, đói khổ. Nhìn cảnh đồng bào chết như thế này, tụi cháu cũng khổ đau lắm. Ngoài Bắc họ tuyên truyền vào Nam đánh Mỹ chớ cháu đâu biết cớ sự như thế này... Ðó, họ cũng tội, họ cũng oán chiến tranh lắm chớ."

"Vậy sao bác chạy tới đây?"

"Họ bỏ đi hết rồi. Nhà chỉ còn toàn xác chết. Còn có một anh bị thương ở lại đó, khuyên tôi nên đi đi, ở lại là chết. Bây chừ tui đi, đi tới nơi mô yên ổn nhất. Ðây vưỡn chưa yên."

Họ cũng là người chứ! Huế ơi, Huế có căm thù họ không? Những đôi mắt mở sâu trừng trừng trong đất đen, trong cõi vô minh có căm thù họ không? Căm thù chứ, phải không? Nhưng không phải căm thù họ, mà căm thù những trái đạn từ đâu nhập vào đất nước để biến chúng ta thành kẻ bị giết hoặc bị bắt, buộc phải giết người, giết anh em, cha, mẹ, bà con ruột thịt. Ruột và thịt, trong gần một tháng qua tôi đã nhìn thấy bao nhiêu. Bao nhiêu đó, có đủ để nhắc nhở gì chăng?

Các em tôi đã đi trình diện hết. Thái được đưa về Phù Lương, Bé trở lại đơn vị. Phía hữu ngạn đã bắt đầu kiểm soát dân. Những người trở về ùn ùn kéo nhau đi lĩnh phiếu kiểm soát. Anh tôi cũng đã lĩnh phiếu.

Xung quanh khu vực tôi ở, hình như người ta đã trở về gần hết. Về tới nhà, gia đình này thiếu mất mẹ, gia đình khác thiếu cha, kẻ mất con. Những tiếng khóc thê thảm bật lên, nối từ nhà này sang nhà khác. Người ta kể cho nhau nghe về những ngày chạy loạn, những cái chết thê thảm, và người ta khóc mùi mẫn. Những giải khăn tang đã bắt đầu xuất hiện.

Ở sở cho người lên báo tin là sẽ có trực thăng đưa tôi từ Huế vào Ðà Nẵng, để từ Ðà Nẵng, tôi sẽ đi máy bay vào Sài Gòn. Tôi mừng rỡ lắm. Nhưng không dám tỏ sự mừng rỡ đó ra cho má tôi, anh tôi biết. Càng ngày, má tôi, anh tôi càng tỏ ra buồn bã, cơn xúc động, kinh hoàng ban đầu đã lắng dần và trở thành đá trong mỗi cõi lòng. Ðêm, chúng tôi vẫn phải ngủ hầm, ngày sặc sụa nước mắt vì hơi cay. Nhưng chúng tôi vẫn tin tưởng là tai nạn sắp chấm dứt. Buổi tối hôm đó, trong bữa cơm, tôi mới dám đem chuyện ở sở báo tin có máy bay cho má và anh tôi nghe. Má tôi khuyên:

"Con nên tìm cách đi sớm. Ngó Huế rứa chớ chưa yên mô, má thấy còn nhiều rủi ro lắm."

Tôi biết má tôi muốn nói tới những viên đạn lạc, những trái đại bác sai đường, những tiếng cú rúc ban đêm, những bước chân dò dẫm mỗi buổi tối. Tôi nói với cả nhà:

"Ði như thế này, con chưa yên tâm. Con thoát một mình con thôi, rồi ở nhà lỡ xẩy ra chuyện gì..."

"Chuyện gì xẩy ra nữa thì cũng đành chịu. Số mạng mà em."

Anh tôi nói. Ðôi mắt anh nhìn lên bàn thờ ba tôi. Ngọn nến vẫn le lói cháy và trầm hương vẫn thơm phức.

"Có lẽ sáng mốt con đi. Chiều mai, con phải về dưới Phù Lương ở lại. Sợ có chi bất trắc kẹt đường."

"Lo trước vẫn hơn," má tôi nói.

Mấy đứa cháu nhao nhao:

"Cô sợ súng, cô đi phải khôn cô?"

"Thế cháu có sợ súng không?"

"Mới bữa đầu sợ, về dưới ni, cháu hết sợ rồi."

Ðêm đó, tôi không ngủ được. Chỉ còn một đêm nay nữa, ngủ nơi ngôi nhà này, ngôi nhà mà tôi đã trở về chịu tang cha để rồi chịu tang chung cho cả một thành phố, tôi có cảm tưởng như trong đêm tối, ngoài vườn, vẫn còn đầy tiếng chân đi. Thỉnh thoảng những tiếng rú, tiếng hét vẫn còn dội trong tiềm thức. Má tôi cũng không ngủ, bà nằm bên cạnh, lần tay trong bóng tối tìm cổ tay tôi:

"Con ngủ đi cho khỏe con. Thức chi mà thức hoài."

Tôi trở mình, thở ra, nói với má tôi:

"Súng bắn nhiều quá má."

"Chắc bên thành nội."

"Không biết trên Từ Ðàm đã đánh xong chưa?"

"Con yên tâm, trên nớ yên là mình về lấy đồ. Chắc cũng không mất mát nhiều đâu."

"Má không tin là cái nhà đó đã sập à?"

Má tôi tin tưởng:

"Không, có sập cũng không đến nỗi."

"Chuyến ni yên, má có định bỏ Huế không? Hay để con vô trong thu xếp mang cả nhà mình vô Sài Gòn luôn."

"Không."

Tiếng "không" má tôi trả lời mau, không suy nghĩ. Bỏ làm sao được phải không má? Phải không Huế? Tôi tưởng tượng ra ngôi mộ của ba tôi nằm trên sườn đồi, vây quanh giữa những ngôi mộ ông tôi, bà tôi, chú tôi và những bà con thân thuộc khác. Rồi ngôi vườn, căn nhà tôi đang sống đây nữa. Cả một đời người, sau bao lần thất bại, ba tôi mới dựng nổi ngôi vườn, căn nhà này. Những cây cối vẫn còn cố sống, dù vàng võ, xơ xác ở ngoài vườn kia, đều do bàn tay ba tôi đã gầy dựng lên. Bây giờ ba tôi đã nằm xuống. Cùng với biến cố này trong thành phố, bao nhiêu người nữa đã nằm xuống. Nhưng cây cối sẽ phải tiếp tục mọc tiếp tục xanh, như sự chết của người dưới mồ phải tiếp thêm sức lực cho sự sống của cỏ cây mọc tràn trên đất. Giọng má tôi vẫn đều đều:

"Má nghĩ mình còn sống, mình còn gầy dựng lại được."

Rồi bà nói sang chuyện khác:

"Con vô Sài Gòn nhớ tìm cách báo tin cho má biết gia đình trong đó ra răng."

Tôi cam đoan với má tôi là ở Sài Gòn yên tĩnh trở lại rồi, và tin tức nhận được là gia đình tôi vẫn yên ổn. Nhưng má tôi vẫn thắc mắc:

"Vô, con nhớ làm cái hầm. Chuyến ni về phải làm cái hầm lại cho chắc chắn."

Tôi dạ dạ vâng vâng cho má tôi yên lòng. Ðêm đó tôi khóc âm thầm mãi. Nằm nghe tiếng súng nổ ran từ phía bên kia thành nội, tiếng đại bác câu đều đều, âm thanh như đưa oan hồn. Mai tôi bỏ Huế để đi một mình, để tìm bình yên một mình. Nhưng liệu có còn chỗ nào bình yên? Quê hương, nơi nào cũng có máu, có lửa. Tôi chúc cho Huế những gì đây?

Sáng hôm sau, Hà cùng với mấy cô nhỏ ở chung nhà đi xe đạp, cố tìm đường lên Từ Ðàm. Nhưng đến xế trưa, Hà trở về, mặt mũi đầy bụi. Nó nói: đường không thể nào đi được. Ở trên đó đang đánh nhau dữ dội lắm. Các ngả đường lên xuống bị chận hết.

Tôi bận rộn sửa soạn để xuống Thanh Lam. Nói là sửa soạn chớ thật chả có gì, ngoài sự bịn rịn người thân trong nhà.

Trước khi đi, tôi với Hà đi một vòng thăm xung quanh khu tôi ở. Lên nhà chú tôi, cả nhà đã đi tỵ nạn dưới Phù Lương. Xung quanh hàng xóm trở về thưa thớt. Những ngôi nhà bị trúng đạn càng ngày càng hư hại, hết sức tiêu điều. Ði vòng con đường nhỏ này là ngả ra núi. Nơi đó, mộ chôn ba tôi. Nhưng không dám đi xa hơn nữa.

Hai chị em xuống cầu An Cựu. Lính Mỹ vẫn gác đầy, chúng tôi muốn đi xa hơn nhưng có người nói nguy hiểm lắm. Khu trường Kiểu Mẫu vẫn còn bị ăn đạn bên kia sông bắn qua. Khi chúng tôi về tới nhà, thấy trong nhà có người lạ. Một ông lão đang ngồi uống nước và nói chuyện với cả nhà. Ông lão này có tới tám mươi tuổi. Má tôi giải thích là ông ở một trong các căn nhà phía sau vườn. Con cháu đã tản cư hết, chỉ còn một mình ông ở lại trong căn nhà đó từ ngày đầu xảy ra tiếng súng tới giờ. Tôi tò mò hỏi thăm, nhưng hình như ông không nghe gì hết, cứ hỏi một điều ông lại nói một chuyện khác. Một lúc sau, tôi mới biết là ông vừa lòa vừa điếc. Tôi hỏi lớn:

"Cụ ở một mình lấy chi mà ăn?"

"Có chớ. Nhiều lắm. Tụi con cháu tui nó để lại bánh mì khô, bánh chưng, gạo nì..."

"Cụ không sợ súng sao?"

Câu hỏi này tôi phải hỏi tới hai ba lần, và làm dấu cụ già mới hiểu:

"Súng há? Ăn thua chi. Tui điếc mà, có nghe cũng như nghe tiếng bắp rang nổ rứa thôi."

"Mấy ngày đầu cụ có gặp họ không?"

"Chi?"

"Gặp họ?"

"Họ là chi?"

"Việt cộng đó cụ."

Tôi la lên đến khan cả cổ. Cụ già gật đầu ra vẻ hiểu:

"Ờ, ờ. Việt cộng. Có, có. Họ vô nhà thấy ông già thì mần chi ông già, ăn cứt ông già..."

Tôi đang buồn cũng không nhịn cười được. Ông cụ già lại kể:

"Cái tụi con cháu nói không được. Tui biểu đừng có đi, cứ đi. Nghe nói trúng bom cả lũ chết hết rồi. Chết hết để lợi một mình tui. Khổ thân chưa..."

"Chừ cụ tính răng?"

"Tui nghe bên ni về đông người, muốn qua hỏi thăm tìm đường đi tìm xác tụi chúng. Khổ quá các bác, các cháu ơi. Tui đã khuyên tụi nó đừng đi, nó không nghe. Như tui cứ ăn no rồi nằm ngủ. Kệ súng kệ đạn, rứa mà có chết mô nà trời. Rứa mà tụi nó khôn biết ma đưa lối quỷ dẫn đường chi mà bồng bế nhau đi hết."

Má tôi khuyên:

"Ôn về nhà đi, đừng có đi tìm. Ai chết người ta cũng chôn hết rồi, biết mô mà tìm."

Ông cụ già đưa tay dụi mắt:

"Chôn hết há? Chôn mô?"

"Chết mô người ta chôn ở đó."

Tôi nhìn thấy hai giọt nước mắt hiếm hoi chảy xuống trên gò má nhăn nheo của ông già. Ông không chào hỏi ai, đi ra khỏi cửa. Tôi đi theo, đưa tay đỡ ông, ông để cho tôi đưa ông về tới nhà.

Thật lạ lùng hết sức. Ngôi nhà ông sập hết một nửa, lại đầy cả vết bom vết đạn. Vậy mà ông già không hề hấn chi hết. Tôi chỉ những dấu đạn ở tường. Ông nói:

"Nó bắn đó."

Ông lần tới gần bên vách tường sập:

"Cái nhà định đổ. Tui có nghe chi mô, chỉ có tiếng bình một cái, người tui hơi dội trở lên, mở mắt thấy cái nhà đổ rồi."

Tôi thấy bên góc nhà mấy cái cờ giải phóng đầy máu, một vài chú ruồi vẫn còn bâu ở đấy. Mấy chiếc cờ tiết ra một mùi tanh khó ngửi. Thấy tôi nhìn, ông già giải thích:

"Của mấy ông giải phóng bỏ lại đó. Mấy bữa đầu thôi thì chết, rồi bị thương tùm lum. Ðem vô đây, đó, nằm ở góc nhà đó rồi khiêng đi, không biết đi mô nữa."

"Bây giờ cụ sống với ai?"

"Một mình."

"Lấy chi ăn?"

"Mai mốt yên, mình nhờ chính phủ chớ. Con cháu chết hết cả rồi. Mình nhờ chính phủ."

Tôi chào ông cụ già rồi đi về. Tới nhà đã thấy xe sở đợi sẵn. Má tôi đang đứng nói chuyện với mấy người trong nhà, thấy tôi, má tôi chạy ra:

"Họ tới đón con rồi đó."

Tôi ôm chầm lấy má tôi. Tôi muốn khóc mà không khóc được. Nhưng má tôi bật khóc dễ dàng:

"Thôi con vô sửa soạn mà đi."

"Má."

"Con sửa soạn đi đi..."

Giữa không khí hoang mang của ngày giá rét, má tôi dường như đang gạt lệ, nhìn ngọn đồi cao trước mặt. Trên đó, là phần mộ ba tôi.

Trước khi tôi đi, tôi thắp một nén hương lên bàn thờ. Hình như tôi muốn khấn một điều gì đó, nhưng trí nhớ của tôi thật hoàn toàn mù mịt.

Xách cái túi nhỏ. Ôm khóc vẫy chào mọi người. Tôi đã ra đến lề đường. Chiếc xe nổ máy chờ sẵn. Ngay trên đầu tôi, những chiếc máy bay không ngớt gầm thét, lượn vòng. Và ở phía xa bên kia thành nội, những ụ khói bốc cao, quằn quại trong những tiếng nổ tung vỡ.

Tôi thật sắp bỏ Huế rồi sao?

1 comment:

SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCH said...

Ba` Nha~ Ca tra? lo+`i vo+'i pho'ng vie^n Ma(.c La^m cu?a RFA:
...
Mặc Lâm: Vẫn báo New York Times, tháng 2 năm 1988, có đăng bài của nữ phái viên Barbara Crossette thăm Saigon viết là “Tết Mậu Thìn, 20 năm sau biến cố Tết Mậu Thân, Saigon cũ vẫn nhắc nhở đến Giải Khăn Sô Cho Huế của Nhã Ca.. Tác giả sách này đã bị bắt sau khi cộng sản chiếm miền Nam cùng với chồng là thi sĩ Trần DạTừ. Cả hai đã bị nhốt nhiều năm như những tù nhân chính trị. Người chồng thì cho mãi đến nay hình như vẫn chưa được thả ra.” Chị có gặp bà Barbara?
Nhã Ca: Thưa anh, tôi chưa từng gặp bà Barbara. Thực sự thì vào thời điểm Barbara muốn thăm tôi tại Saigon vào Tết Mậu Thìn, tôi còn đang bận xách đồ đi thăm nuôi ông chồng vẫn còn đang ở tù.

Thu+a ba` Nha~ Ca va` o^ng Tra^`n Da. Tu+`,

Barbara Crossette cho bie^'t o^ng Tra^`n Da. Tu+` ra kho?i tu` 1 tha'ng tru+o+'c nga`y 12 tha'ng 2 na(m 1988:
On Eve of Tet, Vietnam Tries to Ease Friction_By BARBARA CROSSETTE, SPECIAL TO THE NEW YORK TIMES_Published: February 12, 1988.

Xin thu+a cu`ng ba` Nha~ Ca ca'c ddo^.c gia? quan ta^m,

Va`o na(m 1987, trong mo^.t dde^m nha.c ho`a ta^'u ta.i ta^`ng la^`u thu+o+.ng cu?a qua'n cafe' Thanh Xua^n, va`o lu'c ban nha.c nghi? gia?i lao ta.i ha`ng ghe^' nho? sau sa^n kha^'u, va`i phu't sau nha.c tru+o+?ng la` nha.c si~ Ba?o Cha^'n dda~ dde^'n ngo^`i va`o ba`n va` ho?i to^i: "...co' bie^'t ai ddang ngo^`i o+? ddo' (no+i ca'c nha.c co^ng ddang ngo^`i nghi?) kho^ng? Vo+. cho^`ng Nha~ Ca, Tra^`n Da. Tu+` dde^'n cho+i ddo'!"

Khi nha^.n tha^'y pho'ng vie^n cu?a RFA la` Ma(.c La^m dda~ co^' ti`nh su+?a la.i mo^.t chi tie^'t trong ba`i cu?a Barbara Crossette, sau 20 na(m tha('c ma('c trong lo`ng to^i ca`ng ta(ng the^m.

Barbara Crossette vie^'t:..."When Hanoi's army finally overran the South in 1975, she was arrested, along with her husband, the poet Tran Da Tu. She remained a poltiical prisoner for several years. Her husband was not released until about a month ago."

Nay, 20 na(m sau, vi` ly' do gi` hoa(.c ddo^.ng lu+.c na`o khie^'n nha^n vie^n cu?a RFA la` Ma(.c La^m di.ch sai ha(?n ca^u va(n nguye^n ba?n cu?a Barbara Crossette:..."Ngu+o+`i cho^`ng thi` hi`nh nhu+ cho ma~i dde^'n nay va^~n chu+a ddu+o+.c tha? ra."

To^i nha^.n tha^'y co' chuye^.n la. trong vie^.c ddi tu` cu?a o^ng Tra^`n Da. Tu+`, xin 2 o^ng ba` vui lo`ng tri`nh ba`y tha^.t ro~ ra`ng cu`ng ddo^.c gia?.

DDe^? ke^'t thu'c, to^i xin ma.n phe'p nha('c co^.ng ddo^`ng ngu+o+`i Vie^.t ti. na.n ra(`ng:
Hoa`ng Phu? Ngo.c Tu+o+`ng va^~n thi'ch du`ng pho`ng trong dinh DDo^.c La^.p cu~, du` chi? dde^? no'i chuye^.n va~n vo+'i mo^.t nho'm ba.n be` nho?.
O^ng Ba` Tra^`n Da. Tu+`, Nha~ Ca cha('c bie^'t ro~ ddie^`u na`y?
On Eve of Tet, Vietnam Tries to Ease Friction
By BARBARA CROSSETTE, SPECIAL TO THE NEW YORK TIMES
Published: February 12, 1988

LEAD: As Vietnam prepares to celebrate Tet, the Lunar New Year - and the 20th anniversary of a series of wartime attacks known as the Tet Offensive - the Vietnamese people and army are being urged to get along better with each other.
As Vietnam prepares to celebrate Tet, the Lunar New Year - and the 20th anniversary of a series of wartime attacks known as the Tet Offensive - the Vietnamese people and army are being urged to get along better with each other.
The most recent edition of the Communist Party journal Tap Chi Cong San said the relationship between the army and the people had been ''ruptured'' and that offenses on both sides had ''negatively affected the implementation of strategic tasks.'' Military officers who were combatants in the 1968 Tet offensive said in Ho Chi Minh City in January that the theme of the anniversary would be the building of a new friendship between civilians and soldiers. Although the Tet offensive, during which the Vietcong and North Vietnamese troops attacked dozens of targets around the country and were ultimately defeated, took place on Jan. 31, it will be celebrated on Feb. 17, this year's Lunar New Year. The date is moveable, like Passover or Easter.
According to the Vietnamese press agency, the army, as part of its campaign to win sympathy, will be publishing a mammoth new novel on the Tet offensive in Hue, where fighting was longest and most severe. The 407-page first volume of the book, ''Hue Mua Mai Do'' (''Hue's Red Apricot Season'') by Xuan Thieu, is already out. The press agency did not say how many volumes were yet to come. Subject of an Earlier Novel
The story of the battle for Hue was the subject of an earlier novel, ''A Mourning Cloth for Hue,'' which is still regarded as a classic for its accurate portrayal of what happened there in February 1968.
That book, however, was written before the fall of Saigon by a South Vietnamese writer, Nha Ca, who dwelt on the massacres of several thousand civilians by Communist troops. When Hanoi's army finally overran the South in 1975, she was arrested, along with her husband, the poet Tran Da Tu. She remained a poltiical prisoner for several years. Her husband was not released until about a month ago.
Today, the Vice Minister of Information, Phan Quang, said that 9,174 political prisoners, including 1,014 former officials, would be released or their terms reduced in time for Tet, but that 150 people would remain in detention. He said those to be released included former generals and other high-ranking officers, Cabinet ministers and legislators, the press agency said.
But diplomats say it is impossible to know how many people are imprisoned on criminal charges for acts that might be considered political elsewhere.
As Vietnam prepares to honor those who died at Tet in 1968, frictions between the military and the civilian population are being reported by the Vietnamese press.
With the country no longer at war within its borders, and the occupation of neighboring Cambodia becoming costlier and more unpopular each year, the army has problems recruiting and sometimes comes into conflict with civil authorities, military officers and refugees fleeing Vietnam say.
Tap Chi Cong San said that both party cadre and soldiers ''have fallen prey to incorrect thoughts and acts concerning the army-people relationship.'' It then went on to accuse some in the army of ''militaristic behavior,'' and said they ''lacked a sense of discipline, made light of party organs'' and ''showed a lack of respect for the people's life and property.''
Not to be outdone, the Army newspaper, Quan Doi Nhan Dan, printed a long attack on party cadres, based on letters and visits the paper said it received from oppressed peasants in the countryside. The paper recalled a verse of ''yesteryear'' that was still applicable today: There was a cooperative where It was declared to be just and fair For one to do the job of two So the chairman could buy a radio Plus a bicycle, if he did care.
''Some hamlet and village cadres have acted in a manner no less deplorable than the tyrants of old, but they are, of course, more sophisticated in their
http://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=940DE6D8143BF931A25751C0A96E948260

“Giải Khăn Sô Cho Huế”, RFA phỏng vấn Nhã Ca
2008.02.03
Mặc Lâm, phóng viên đài RFA
Tết Mậu Tý năm nay vừa tròn 40 năm biến cố Mậu Thân. Trong nỗi buồn chung của dân tộc, từ những gia đình có người thân bị thảm sát cho đến những ai may mắn sống sót trong cơn địa chấn đó đều không nhiều thì ít cùng mang tâm trạng bâng khuâng ngậm ngùi mặc dù thời gian đã trôi qua gần phân nửa thế kỷ.

* Nghe cuộc phỏng vấn này
* Tải xuống để nghe

Tác giả Nhã Ca. Photo courtesy of viettribune.
Nhắc đến Tết Mậu Thân hầu như người Việt nào sống trong khoảng thời gian đó đều biết một cuốn sách của tác giả Nhã Ca mang tên Giải Khăn Sô Cho Huế, quyển sách là hình ảnh sống động miêu tả lại hầu như toàn cảnh của biến cố này vì tác giả của nó trực tiếp sống và bị cuốn theo dòng chảy của một cuộc thanh trừng đẫm máu nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam.
Tác phẩm Giài Khăn Sô Cho Huế sẽ được nhà xuất bản Việt Báo tái bản trở lại trong dịp kỷ niệm 40 năm biến cố Mậu Thân, Mặc Lâm mời quý vị theo dõi buổi phỏng vấn đặc biệt với tác giả Nhã Ca trong chương trình văn học nghệ thuật tuần này để biết thêm những chi tiết liên quan đến vấn đề này.
Mặc Lâm: Thưa chị Nhã Ca, Tết Mậu Tý 2008 là đúng 40 năm biến cố Huế Tết Mậu Thân. Ðược biết nhân dịp này, lần đầu tiên tại hải ngoại, cuốn Giải Khăn Sô Cho Huế đã được tác giả cho tái bản. Xin chị cho biết về lần tái bản này, cuốn sách mới có gì khác biệt với sách cũ.
Nhã Ca: Cám ơn anh Mặc Lâm và đài RFA đã có lòng nhớ Huế Tết Mậu Thân và hỏi thăm. Sách mới “Giải Khăn Sô Cho Huế” ấn bản đầu tiên tại hải ngoại do Việt Báo ấn hành, sách dầy 640 trang, khổ lớn, bìa cứng, sẽ được phát hành trong tháng 2-2008.
Như anh biết, sách cũ “Giải Khăn Sô Cho Huế” in lần đầu tại Việt Nam cuối năm 1969, là một... bút ký chạy loạn. Sách mới, ngoài bút ký cũ, còn in thêm đầy đủ tất cả chữ nghĩa Nhã Ca đã viết về biến cố Tết Mậu Thân tại Huế, gồm một truyện dài, thêm nhiều bút ký và truyện ngắn.
Mặc Lâm: Xin chị cho biết thêm chi tiết. Trong lần tái bản này, có thay đổi gì đáng phải bàn tới trong tác phẩm, hoặc có điều gì tác giả muốn gửi gấm?
Nhã Ca: Thưa anh, trong lời tựa nhỏ cho bản in lần đầu của “Giải Khăn Sô Cho Huế” tôi có viết là “Nhân ngày giỗ thứ hai của Huế Tết Mậu Thân sắp tới, xin coi cuốn sách này như một bó nhang đèn góp giỗ.” Tinh thần ấy không thay đổi.
Về chi tiết cuốn sách mới vừa được in lại, tôi có kể thêm chút chút trong ‘tựa nhỏ’ là:
“Tôi tin vào tương lai của Huế và tương lai Việt Nam, như tin vào những tình ca về lòng yêu thương và sự ăn ở tử tế giữa con người với nhau. Với lòng tin ấy, sau “Giải Khăn Sô Cho Huế” còn có thêm hai cuốn sách nhỏ viết về Tết Mậu Thân: “Tình Ca Cho Huế Ðổ Nát” là tập truyện viết về tình yêu và lòng thành của Huế trong đau thương, tang tóc. Tiếp đó là “Tình Ca Trong Lửa Ðỏ,” một truyện dài về tình yêu của cô gái Huế dành cho một chàng lính Bắc tử tế.
“Từ sau 1975, sách vở miền Nam bị đốt, và nhà văn đi tù. Cho tới nay, Huế không còn được phép chính thức có một ngày giỗ chung cùng hướng về những người chết tức tưởi hồi Tết Mậu Thân.
Vẫn với lòng tin xưa, đây là lần đầu cả ba cuốn sách về Huế Mậu Thân được gom lại làm một. Và sách “Giải Khăn Sô Cho Huế” thêm một lần in lại, như một bó nhang đèn góp giỗ. Góp cho ngày giỗ thứ 40 thầm lặng trong lòng Huế. Và góp cho một ngày giỗ tương lai tại quê hương, nơi từng biết thế nào là tình yêu thương, sự ăn ở tử tế, như từng biết thế nào là văn hoá, lịch sử.”
Thưa anh, đó là lời gửi gấm của người ‘góp giỗ’ khi ‘Giải Khăn Sô Cho Huế’ được in lại.
Mặc Lâm: Thưa chị, khoảng cách thời gian của ‘chữ nghĩa Nhã Ca’ viết về biến cố Tết Mậu Thân tại Huế đến nay đã là 40 năm. Xin chị nhìn lại vài thời điểm chính. Báo New York Times năm 1973 trong một bài về Nhã Ca có kể là ‘khi Giải Khăn Sô Cho Huế khởi sự đăng tải trên một nhật báo tại Saigon, đặc công Việt Cộng đã gửi thư đe dọa, buộc bà ta ngưng viết. Bà đã không nhượng bộ.’ Sự việc đã diễn tiến ra sao từ đó về sau?
Nhã Ca: Thưa anh, đúng như báo New York Times đã viết. Chắc anh còn nhớ thành tích của cái gọi là ‘biệt động thành’ của cộng sản tại Saigon. Họ đã bắn chết nhà báo Từ Chung khi anh là tổng thư ký nhật báo Chính Luận. Họ đã bắn bể mặt của nhà văn Chu Tử khi anh là chủ nhiệm nhật báo Sống. Và sau đó thì đến phiên tôi nhận thư đe doạ.
Chắc anh cũng nhớ, ngay sau ngày Saigon bị đổi tên đổi đời, có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn cộng sản như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này Nhã Ca là nữ biệt kích duy nhất, được xếp hạng thứ sáu. Những tác giả miền Nam khác là Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến... Và sau đó, dĩ nhiên là ‘nữ biệt kích’ được vinh dự cùng các bạn văn đi tù...
Mặc Lâm: Vẫn báo New York Times, tháng 2 năm 1988, có đăng bài của nữ phái viên Barbara Crossette thăm Saigon viết là “Tết Mậu Thìn, 20 năm sau biến cố Tết Mậu Thân, Saigon cũ vẫn nhắc nhở đến Giải Khăn Sô Cho Huế của Nhã Ca.. Tác giả sách này đã bị bắt sau khi cộng sản chiếm miền Nam cùng với chồng là thi sĩ Trần DạTừ. Cả hai đã bị nhốt nhiều năm như những tù nhân chính trị. Người chồng thì cho mãi đến nay hình như vẫn chưa được thả ra.” Chị có gặp bà Barbara?
Nhã Ca: Thưa anh, tôi chưa từng gặp bà Barbara. Thực sự thì vào thời điểm Barbara muốn thăm tôi tại Saigon vào Tết Mậu Thìn, tôi còn đang bận xách đồ đi thăm nuôi ông chồng vẫn còn đang ở tù.
Mặc Lâm: Bên cạnh những lời khen thường gặp chị có nhận được những băn khoăn hay nghi ngờ gì về mức khả tín mà độc giả đặt ra đối với tác phẩm? Có nhân vật “thật” nào trong “Giải khăn sô cho Huế” công khai chống đối hay đồng tình với những gì chị trình bày trong tác phẩm hay không? Nếu có chị có thể cho biết phản hồi của chị?
Nhã Ca: Cám ơn câu hỏi đặc biệt của anh. Như đã thưa với anh, “Giải Khăn Sô Cho Huế” chỉ là bút ký hoặc truyện ký của một người chạy loạn Tết Mậu Thân tại Huế, kể lại những điều mắt thấy tại nghe. Trong cảnh bom đạn, chết chóc, dù mắt chính mình có thấy vẫn không thể thấy hết mọi phía. Tai nghe là nghe người khác kể lại. Dù tai nghe mắt thấy, có sao viết vậy, hẳn nhiên cũng không khỏi thiếu sót hoặc sai sót. Ðiều quan trọng là tấm lòng. Chữ nghĩa đã viết là chuyện đã rồi, có sao để vậy. Tôi thật tình mong những thiếu sót sẽ dần được bổ túc, những sai sót sẽ dần được chỉ rõ.
Về “những nhân vật thật”, nêu đích danh chỉ có anh Lê Văn Hảo, thị trưởng Huế Mậu Thân do phía quân giải phóng cử ra. Anh Hảo nay đã tị nạn cộng sản tại Pháp, đã chính thức lên án việc quân giải phóng tàn sát dân Huế hồi Tết Mậu Thân. Nhân vật thứ hai trong sách mang tên Phủ là nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, nguyên Tổng Thư Ký Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình Thành Phố Huế thời Tết Mậu Thân. Ðây là chức vụ “phụ trách công việc chính trị” có nghĩa là “xếp” của cả chức thị trưởng. Năm 1997, anh Tường đã đến Paris, lên tiếng trên đài RFI, nói về
-xin trích nguyên văn: “nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Ðó là một sai lầm không thể nào biện bác được...” Anh cũng đã công khai “gửi lời cám ơn sự khách quan của chị Nhã Ca dành cho tôi” và nói nguyên văn rằng “Giải Khăn Sô Cho Huế đối với tôi, vẫn là một bút ký hay viết về Huế Mậu Thân; hàng chục năm qua đọc lại, tôi vẫn còn thấy quặn lòng.” Văn bản lời anh Tường trả lời cuộc phỏng vấn của chị Thụy Khuê đài RFI hiện còn lưu trên internet, ai cũng có thể đọc được. Nhân vật thứ ba trong sách có tên là Ðắc, theo lời kể mà tai tôi nghe, liên quan tới cái chết đau thương của người bạn tên là Mậu Tý. Nhà báo Nguyễn Ðắc Xuân, một phụ tá của anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, có viết bài phản bác, nói là anh không hề liên quan.
Cả ba nhân vật kể trên, đều đã có lòng đích thân đến gặp tôi trước ngày chúng tôi rời Saigon sang Thụy Ðiển. Ðoạn kể lại những gặp gỡ này trong Hồi Ký Nhã Ca có được trích in trong sách mới Giải Khăn Sô Cho Huế.
Mặc Lâm: Cho tới nay, điều gì còn đậm lại rõ nét nhất nơi chị khi nhìn lại tác phẩm “Giải khăn sô cho Huế”. Xin nhắc câu đã hỏi, là chị có thể nói về sự “phản hồi” của chị, nếu có.
Nhã Ca: Về điều mà anh gọi là “còn đậm nét nhất” khi nhìn lại “Giải Khăn Sô Cho Huế”, tôi thấy đó là sự oan khiên nối dài chưa biết đến bao giờ. Hàng ngàn người chết oan cho tới nay không có được một lời xin lỗi, một ngày tưởng niệm. Cuộc đại tàn sát Tết Mậu Thân, ngày giỗ lớn nhất của Huế, thì được đánh trống thổi kèn như ngày hội chiến thắng. Phần oan khiên riêng của cuốn sách và tác giả thì đủ cảnh tức cười, sách bị những người cộng sản treo để “triển lãm tội ác”, tác giả đi tù.
Từ cảnh Huế Mậu Thân trong sách được viết lại thành chuyện phim Ðất Khổ, phim quay xong năm 1972 bị cấm chiếu ở Saigon vì tội phản chiến. Bốn mươi năm sau, mới đây thôi, tháng 5 năm 2007, cuốn phim được một hãng Mỹ khai thác làm DVD bán ngay tại Mỹ và dán cho nó cái bìa là... cờ đỏ sao vàng. Chi tiết chuyện oan khiên tức cười này báo Tết Việt Báo năm nay có đề cập.
Về điều anh gọi là “phản hồi”, tôi thấy chỉ có thể nói thế này: Bi hài kịch của thời đại chúng ta là sự ngộ nhận. Nó ở khắp nơi, phe này, phe kia, chủ nghĩa này chủ nghĩa nọ, ông này, bà kia, tác giả, nhân vật... đâu đâu cũng có nó. Như dân tộc của mình, tất cả chúng ta, dù người bị giết hay kẻ giết người, đều chỉ là nạn nhân. Thuốc chữa sự ngộ nhận cho người hay cho chính mình, theo tôi, nên là sự hiểu biết và ăn ở tử tế, với cả người sống lẫn người chết.
Mặc Lâm: Cám ơn chị Nhã Ca.


----- Original Message ----
From: Dat Kho The Film

Sent: Monday, March 31, 2008 10:10:34 AM
Subject: [Thaoluan] Read a Review of Trinh Cong Son Film "Dat Kho"

Dat Kho – Land of Sorrows"
A review by Kim Waites


"Dat Kho; Land of Sorrows" is a film depicting the story of
one South Vietnamese family during the Vietnam War. Although the
story is fiction, it is drawn from real life experiences. The writer
weaves many timeless and poignant issues that are raised during the
war. The film is directed by Ha Thuc Can, a former CBS cameraman that
covered the war. This was his one and only venture in directing
film. The film was shot on location in Vietnam and actually contains
real footage of the evacuation of Hue during the Tet Offensive. The
film stars Trinh Cong Son, a Vietnamese musician and antiwar
protester. His songs are incorporated into the story line and help
bring great emotional depth to the film. Several issues are addressed
in the film, mainly the circumstances and hardships of Trinh Quan's
(Trinh Cong Son) family; the issue of Buddhist immolation, the Tet
Offensive and it also weaves a romantic subplot. The romance revolves
around Thuy, Quan's sister, and Nghia, who is firm in his political
neutrality. By creatively manipulating all of these issues, Ha Thuc
Can delivers a wonderful depiction of what it was like to be a South
Vietnamese during the Vietnam War.
The opening of the film is grim and dark, both in content and
cinematography. The author's attempt to convey the bleak conditions
of the war is firmly delivered. Quan questions Nghia about the
conditions and status of the war. Nghia replies that they have a
strong chance of winning and the "morale is high". Historically
though, ARVN morale was notoriously low and they never had a very
high chance of winning. Nghia candy coats the issue as to not worry
Quan. Naturally, Quan will relay any news, good or bad, to his family
and that will only cause conflict within the family unit. Protection
of the family morale becomes a recurring theme throughout the movie.
This opening scene ends with a powerful stare off between the Nghia
and Quan where the camera shifts from one to the other a few times.
Both are staring relentlessly at each other with furrowed brows.
There is a sense of bonding and connection here that is greatly
conveyed with this technique.
Next we hear in the distance prayers and chants of a Buddhist
congregation. The congregation is praying for the immortal soul of
Dieu Dihn whom has recently immolated herself in protest of the war.
Nghia and Quan overhear this congregation. Quan comments that this is
the fifth immolation since the beginning of the war. Sparingly and
very nuanced, the film addresses a few times the issue of Buddhist
immolation. Immolation, though, was not a phenomenon reserved to the
era of the Vietnam War. On a small level, Buddhism has a history of
immolation and self-mutilation. It is mainly referred to in religious
texts and is usually reserved to metaphorical interpretations. During
the Vietnam War, immolation was propelled into literal action by at
least 37 devout Buddhists. The film should not lead one to believe
that Buddhism, in general, condones these extreme acts of protest.
Quan joins a group on foot to walk back to his home city of
Hue. You see the group walking by foot down the winding roads. The
beginning credits are rolling and the sound of the traditional Dan
Bau is playing. As they walk the road, focus is on the mountains and
calm sea inlets. It is close to the end of this scene that a major
motif is introduced; the sound of shots firing in the distance in two
successive shots. This comes to symbolize the war and is revisited
throughout the entire film. The group parts in the darkness so they
have walked nearly 24 hours. Quan has a quick rendezvous with a love
interest. They agree to meet the next day at Tu Duc's royal tomb. Tu
Duc is frequently referred to as Vietnam's last emperor before French
colonialism ensued. He staunchly opposed French occupation and was
said to have cursed the French in his dying breath. The fact that
Quan chooses this location to rendezvous is symbolic of his own wish
for a free and independent Vietnam.
Quan continues on to his family home where he finds his
mother and sister Thuy sorting our winter clothes. He surprises the
two and after an emotional reunification, Thuy serves a meal. Mother
briefs Quan on what has been happening with the family. Quan is then
encouraged to perform a song on his guitar. Quan plays a song in
Western style, in a Western key but which is sympathetic to the
Vietnamese plight and relevant social conditions. This is a wonderful
fusion and balance of Western and Eastern culture. Throughout the
film, Quan comes to represent on a deeper level a balance between the
East and West. Quan states, "My songs speak of the sufferings of our
people and our desires for peace." The film embeds three of his
songs. One is as follows;
When peace returns to our country
I shall visit many sad cemeteries
And tombs covered with grass
When killing ends in our country
Then children will sing on the roads
When peace returns to our country
I shall be continuously on the road
From Saigon to the centre
From Hanoi towards the south
I shall share everyone's happiness
And I hope to forget the history of my country

The remainder of the film revolves around the hardships of broken
Vietnamese families. Nghia returns to his home only to find that both
of his parents had been killed and his younger siblings were forced
to live in a hillside with barely enough food to subsist. The
climactic point comes when Quan's family comes under attack on the
eve of Tet. They are joyfully playing a dice game despite the fact
that Ha, one of the family brothers, was recently killed in Dakto. An
American deserter is residing with them at this point. Once they
realize that they are under fire and it's not just the sound of
holiday firecrackers, they flee for safety. The American turns
himself in, in hopes that it will help protect them somehow.
Evacuation by the entire village is mandatory. They take up shelter
and refuge in a Catholic church. This refuge only provides temporary
shelter until it is also seized by gunfire. It is at this time that
the director incorporates some chilling footage of actual evacuation
of Hue's citizens.
The romantic subplot is tied up with an encounter between the
two lovers, Thuy and Nghia. They risk their safety by meeting in
secrecy in the woods. The scene becomes violent when they get shot at
but as the gunfire ceases, Thuy finds a flower and points out the
timelessness of its beauty to Nghia. She queries, "The flowers
blossom despite the bombs, why?" Nghia replies, "The war goes on but
flowers will go on blossoming and lovers will go on loving."
The film ends on a tragic note when one of the family members is shot
during the evacuation from the church. That family member's last
words sum up the desperation of everyone. They were, "it's no use
shouting for help in this damned land, Mother, nobody would pay any
attention…I no longer suffer.". The family makes a hard decision to
bury the deceased on the road side and continue on home. Mother
states, "For if we must die, we shall die at home." The film ends
with them walking down the road towards home. The Dan Bau is playing
and you hear the succession of shots once again as a haunting
reminder that the war and violence continue.