Wednesday, June 4, 2008

Hue / Nguoi Viet Online

Huế, 40 năm sau Tết Mậu Thân, vết thương vẫn chưa lành...
Sunday, February 03, 2008

--------------------------------------------------------------------------------


Cách đây đúng 40 năm, trong chiến dịch Ðông Xuân 1967-1968, quân đội Bắc Việt, dưới danh nghĩa là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đã đồng loạt tấn công vào 41 tỉnh, thành phố, thị trấn và hàng trăm thị xã miền Nam Việt Nam. Thời điểm cuộc tấn công diễn ra đúng vào giao thừa trong bối cảnh hai phía Bắc-Nam và cả quân đội đồng minh đã thỏa thuận hưu chiến 36 giờ đồng hồ để người dân được yên hưởng một Tết truyền thống trong hòa bình.

Vi phạm thỏa ước, Việt Cộng đã tấn công đúng vào giao thừa để dành phần bất ngờ. Chiến trường Huế, một địa điểm chính yếu trong toàn cuộc chiến, đã diễn ra ác liệt và kéo dài đến 25 ngày đêm. Khi quân đội Bắc Việt bị đánh bật ra khỏi thành phố, người dân Huế nhận ra rằng, nhiều ngàn người dân thường đã bị thảm sát, để rồi từ đó về sau, mỗi năm, Tết Nguyên Ðán trở thành ngày giỗ người thân của hàng ngàn gia đình ở cố đô Huế.

Tưởng niệm 40 năm biến cố Mậu Thân, đài Á Châu Tự Do xin kể lại cuộc thảm sát thông qua ký ức của chính những người trong cuộc, qua đối thoại trực tiếp hay tài liệu lưu trữ. Loạt bài gồm 5 phần, do biên tập viên Thiện Giao thực hiện.


Khuya Mùng Một, rạng sáng Mùng Hai Tết Mậu Thân, tức là ngày 31 Tháng Giêng năm 1968, Huế bắt đầu những ngày vui, nhưng bất ngờ chuyển thành ngưỡng cửa vào địa ngục, khi tiếng súng bỗng hòa vào, rồi thay hẳn tiếng pháo...

Huế bị tấn công trong Chiến Dịch Ðông Xuân 1967-1968 của quân đội miền Bắc chỉ một ngày sau các tỉnh, thành phố, thị trấn khác của miền Nam.

Bị tấn công sau, nhưng Huế đã trở thành chiến trường tàn khốc nhất, dai dẳng nhất.

Nếu chấp nhận một định nghĩa, rằng những tiếng đạn pháo đầu tiên qui định giờ khắc bắt đầu cuộc chiến, thì Huế bắt đầu trở thành chiến trường vào đúng 2 giờ 33 phút rạng sáng ngày 31 Tháng Giêng.

Ông Nguyễn Phúc Liên Thành, phó trưởng Ty Cảnh Sát Ðặc Biệt Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại Thừa Thiên, kể lại:

“Cuộc tấn công Huế chính thức vào đêm Mồng Một, ngày 31 Tháng Một, 1968, rạng sáng Mồng Hai Tết, lúc 2 giờ 33 phút. Những quả đạn Việt Cộng đầu tiên bắn vào phi trường Tây Lộc, Bộ Tư Lệnh và một số địa điểm quận 3, thị xã Huế.”

Huế đã nằm trong tay địch 25 ngày đêm liên tiếp. Khi quân đội Việt Nam Cộng Hòa cùng đồng minh Hoa Kỳ vãn hồi an bình cho Huế, với cao điểm là các trận tái chiếm Ðại Nội, hạ cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, dựng lại cờ Việt Nam Cộng Hòa tại Kỳ Ðài ở Phu Văn Lâu ngày 22 Tháng Hai, Huế đã trải qua hơn 3 tuần kinh hoàng.


25 ngày thảm sát kinh hoàng


Những kinh hoàng không dừng lại với hình ảnh của chiến tranh và âm thanh của đạn pháo.

Huế, bắt đầu một cơn ác mộng khác nữa, khi người dân Huế bàng hoàng nhận ra, rằng nhiều ngàn người dân đất thần kinh đã bị thảm sát, bằng nhiều cách khác nhau, trong đó có cả việc cột người ta lại thành từng xâu, rồi đẩy xuống hố chôn sống. Ðây là lời kể của những người chứng kiến tận mắt cảnh khai quật tử thi nạn nhân.

Theo nhà báo Vũ Ánh, cựu phóng viên mặt trận hệ thống truyền thanh Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, thì: “Ngay tại Phú Thứ, Bác Sĩ Lê Khắc Quyến nói với tôi là: ‘Ðây là cách giết người của người ở thời Trung Cổ.’” Ông là phóng viên có mặt tại Huế từ ngày 5 Tết cho đến 26 Tết vừa theo dõi trận đánh tái chiếm thành nội và sau đó theo chân đoàn người đi tìm và khai quật các ngôi mô tập thể ở Phú Thứ, Dưỡng Mong, Gia Hội, An Cựu và Nam Giao... nơi hàng ngàn người gồm cả phụ nữ, trẻ em, người già, tu sĩ, giáo sư đại học người ngoại quốc bị đập chết hay bị chôn sống.

Ông Võ Văn Bằng, trưởng Ban Truy Tìm và Cải Táng Nạn Nhân Cộng Sản Tết Mậu Thân, hồi tưởng: “Các hố cách khoảng nhau. Một hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, nào là nằm, nào là ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạt trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ, họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng.”

Mức độ kinh hoàng dâng lên, từ từ, từng ngày, từng tuần, từng tháng. Rồi, đến ngày 19 Tháng Chín năm 1969, tức là 20 tháng sau trận Mậu Thân, Huế vỡ òa với những phát hiện về vụ thảm sát tại Khe Ðá Mài thuộc quận Nam Hòa. Người ta tìm ra khoảng 400 bộ hài cốt. Những hài cốt chỉ còn xương và sọ. Thịt da đã rữa và trôi đi theo dòng nước.

Huế 1968, là Huế của “chiều đi lên Bãi Dâu, hát trên những xác người.”

Huế 1968, là Huế của “đàn con nay lớn khôn, mang gươm đao vào xóm làng.”

Huế 1968, là Huế của khăn sô và áo tang trắng. Ðó là những hình ảnh không thể nào quên với những ai đã một lần chứng kiến: “Mỗi lần nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế làm lễ, dân chúng đi lễ, cả nhà thờ mặc đồ trắng và để tang trắng cả nhà thờ.”, Trần Tiễn San, trung úy tiểu đoàn 39 Biệt Ðộng Quân vào năm 1968.

“Dọc đường, từ đường Lê Lợi, các quận lên mồ chôn tập thể Ba Ðồn toàn khăn tang áo trắng.”, Nguyễn Phúc Liên Thành, phó trưởng Ty Cảnh Sát Ðặc Biệt Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại Thừa Thiên.

Những địa danh của Huế, vốn chỉ được biết trong cộng đồng cư dân Huế, nay bỗng chốc, trở thành đề tài bán tán của dư luận, trên báo chí quốc gia, và cả quốc tế. Một Gia Hội, một Cồn Hến, một Chợ Thông, một Phú Thứ, một Khe Ðá Mài, một Bãi Dâu. Ai đã thắng trận chiến giành lấy từng căn nhà, từng con đường của thành Nội, kéo dài trong 25 ngày tại Huế? Ai thắng, có lẽ, không phải là điều quan trọng? Hay ít nhất không phải là điều quan trọng nhất.


Trách nhiệm thuộc về ai?


Người dân Huế quan tâm hơn đến câu hỏi: Ai đã giết, ai đã chết, ai sẽ chịu trách nhiệm những gì xảy ra trong gần 4 tuần lễ kinh hoàng của Huế?

Học giả Douglas Pike, thuộc Phòng Thông Tin Hoa Kỳ, trong bản báo cáo hoàn tất vào ngày 1 Tháng Hai năm 1970 tại Sài Gòn, đã viết, chỉ trong một trận Mậu Thân tại Huế, gần 4,800 thường dân đã chết và mất tích. Ông Pike kết thúc lời mở đầu của báo cáo bằng một khẳng định:

“Nếu báo cáo của tôi là một bản án đối với thái độ của người Cộng Sản, thì thật sự nó là như vậy đấy. Ðơn giản vì thái độ ấy đáng bị lên án.”

Trong khi đó, trong một bài viết đăng trên số 33 tạp chí Indochina Chronicle, ngày 24 Tháng Sáu năm 1974, Tiến Sĩ Gareth Porter phản bác lại tất cả những gì ông Pike đã viết. Tiến Sĩ Porter nhận định rằng, vụ thảm sát Mậu Thân 1968 tại Huế, với chữ thảm sát để trong ngoặc kép, chỉ là một câu chuyện hoang đường phục vụ lợi ích của Hoa Kỳ và chính quyền miền Nam lúc bấy giờ.

Ðây là một kết luận đáng ngạc nhiên, vì ngay một cơ quan chính thức của nhà nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa là Cục Văn Thư và Lưu trữ Nhà Nước từng gọi việc những người miền Nam di tản hồi cuối Tháng Tư năm 1975 là một “tội ác cưỡng ép di cư” cũng không dám đưa ra một kết luận tương tự như thế.

Có lẽ, không ai, xin nhấn mạnh, không có bất cứ ai, có đủ tư cách và thẩm quyền để trả lời câu hỏi: Ai đã giết người dân Huế? Chỉ có thành phố Huế và người dân Huế, những nạn nhân trực tiếp của cuộc thàm sát, và những người trực tiếp tham gia công tác truy tìm, mai táng xác nạn nhân mới có thẩm quyền trả lời, và cả thẩm quyền để lên án.

Những nhân chứng của 40 năm trước hồi tưởng: “Theo những báo cáo của các cuộc cảnh sát các xã thuộc 13 quận của thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, do các xã báo cáo, khoảng 5,300 nạn nhân bị chôn sống tại tỉnh Thừa Thiên”, Nguyễn Phúc Liên Thành, phó trưởng Ty Cảnh Sát Ðặc Biệt Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại Thừa Thiên.

“Vết thương đó vẫn chưa khô máu, vết sẹo đó mỗi lần trái gió trở trời vẫn đau xót xa.”, Huy Phương, cựu phóng viên cục tâm lý chiến.


Người Huế nói gì về biến cố Tết Mậu Thân?


Và hôm nay, người dân Huế thế hệ Mậu Thân, đang sống tại Huế, nói gì?

“Gió Nam thì vỗ về gió Nam, gió Nồm thì vỗ về gió Nồm. Ngã mô cũng khổ. Không theo thì chết. Không theo thì chôn...”

“Nó xô xuống, nó dập, khổ lắm. Ở Huế đây chết nhiều cái thê thảm!”

“Toàn dân không à. Mà họ nói là ác ôn, ri khác. Ai chết thì chết. Tui chừ tui cũng sợ, tui không dám về làng.”

40 năm qua là 40 năm người dân Huế đón Xuân cùng lễ giỗ. Bốn mươi năm nhưng vết thương chưa lành. Năm nay, người dân Huế ở hải ngoại lại tổ chức lễ tưởng niệm 40 năm thảm sát Mậu Thân. Ở trong nước, giới chính quyền, giới quân sự thì tổ chức hội thảo khoa học về chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968. Một trong các hội thảo được tổ chức tại Huế.

Ðến nay, đứng trước những cáo buộc suốt 40 năm của những Việt Nam Cộng Hòa cũ, và của cả giới nghiên cứu quốc tế, nhất là Hoa Kỳ, Hà Nội vẫn chưa bao giờ có câu trả lời chính thức: Ai, bằng cách nào, và tại sao, đã giết hàng ngàn người Huế, trong đó có cả sinh viên, thanh niên, học sinh và phụ nữ.

Nhân kỷ niệm 40 năm biến cố Mậu Thân, ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do chúng tôi xin được tái hiện lại, trong chừng mực có thể, dựa trên lời kể của những người trong cuộc, về những gì đã xảy ra tại Huế trong năm 1968.

Ðó chẳng những là một cách để ghi lại những gì thực sự xảy ra trong chuỗi ngày kinh hoàng ấy, mà còn là để tưởng nhớ những con người đã chết oan khuất, đớn đau trong một sự kiện lịch sử mà không ít người muốn chôn vùi hay gây nhiễu.

Loạt bài này gồm 4 chủ đề, trình bày các khía cạnh dân sự lẫn quân sự của trận Mậu Thân trên nền những ký ức về vụ thảm sát. Cũng trong nội dung này, hành trình truy tìm và cải táng các mộ chôn người tập thể những tháng sau đó cũng sẽ được trình bày lại, theo lời kể của các nhân chứng, người Huế và cả các nhà báo theo dõi sự kiện này.


Trên đây là bài thứ nhất trong loạt bài “Cuộc thảm sát Tết Mậu Thân 40 năm trước” do Thiện Giao thực hiện. Trong bài kế tiếp, chúng tôi xin gởi đến quí vị những hồi ức về Huế, những ngày trước Tết Mậu Thân. Ðối với người dân thường, Mậu Thân là một cái Tết bình thường như bao cái Tết khác. Nhưng, họ đã không ngờ niềm vui và những ngày hòa bình hiếm hoi đang nằm trong nỗi kinh hoàng đang đến dần. Huế, những ngày ấy, như lời nhà văn Nhã Ca trong hồi ký “Giải Khăn Sô Cho Huế,” “Ðang mở cửa địa ngục.”

Su Gia Hoa Ky Noi Ve Tran Chien Mau Than

Hỏi sử gia Mỹ về trận chiến Mậu Thân


Cuộc Tổng Tấn công 1968 là điểm bước ngoặt của chiến tranh Việt Nam
Cuộc Tổng Tấn công Tết Mậu Thân 1968 là một trong vài sự kiện quan trọng nhất trong cuộc chiến Việt Nam.
40 năm sau cuộc Tổng Tấn công này, những nhà nghiên cứu có thêm những nhận định, suy nghĩ gì về các khía cạnh của cuộc chiến năm 1968?
Lê Quỳnh của BBC đã có cuộc phỏng vấn với Tiến sĩ James H. Willbanks, Giám đốc Khoa Lịch sử Quân sự, Trường Chỉ huy Tham mưu Quân đội Mỹ (U.S. Army Command and General Staff College) ở Fort Leavenworth, bang Kansas.
Câu hỏi đầu tiên là những nghiên cứu học thuật trong 10 năm qua có cung cấp thêm thông tin gì về trận Mậu Thân?
James H. Willbanks: Một số thông tin mới liên quan đến những kế hoạch và ý định của phía Cộng sản. Ví dụ, một trong các câu hỏi còn đọng lại là ý định của quân đội Cộng sản tại Khe Sanh – có phải tướng Giáp định chiếm căn cứ của Thủy quân lục chiến hay chỉ định dùng nó để thu hút chú ý trong khi các khu vực đông dân cư mới là mục tiêu chính của chiến dịch? Các tư liệu mới công bố từ phía bên kia cho thấy Khe Sanh là một phần trong cố gắng của họ nhằm đánh lạc hướng trong khi các mục tiêu chính của chiến dịch là các trung tâm dân cư và các cơ quan quân sự đầu não.
Trong số những phát hiện đáng chú ý nhất từ nguồn tài liệu mới này là mức độ sai lầm trong tính toán của những người Cộng sản khiến họ bị thất bại trong chiến dịch. Mặc dù trước đấy đã có thừa nhận về những thất bại tình báo của phía Mỹ trong những tháng dẫn đến chiến dịch, nhưng nay người ta biết rằng phía bên kia cũng có một số tính toán sai lầm nghiêm trọng.
Trong những năm gần đây, đã có nhiều bài báo, lịch sử đơn vị và các ấn phẩm khác cung cấp cái nhìn mới về kế hoạch của phía bên kia trước chiến dịch. Ta thấy những thất bại chính trong kế hoạch của Cộng sản là sự đánh giá nhầm về cả khả năng của đối phương và các cảm tình viên, những báo cáo sai, và tác động của ý thức hệ và “lạc quan tếu” lên đánh giá quân sự.

Trận đánh lớn xảy ra ngay tại Sứ quán Mỹ ở Sài Gòn
Theo những người lên kế hoạch của phe Cộng sản, cuộc tổng tiến công sẽ thắng lợi vì một cuộc tổng nổi dậy, được cho là đỉnh cao của nhiều năm đấu tranh chính trị, sẽ giúp giảm bớt lợi thế quân sự của người Mỹ và lật đổ chính quyền Sài Gòn. Tổng nổi dậy là vũ khí tối thượng của họ; họ tin rằng sự trong sạch ý thức hệ và nhiệt tình cách mạng sẽ chiến thắng, ngay cả trước khả năng điều động và hỏa lực hơn hẳn của Mỹ. Như một người trong cuộc sau này nhận xét, họ “…dự tính đúng một khả năng – là cuộc tổng tấn công nổi dậy chắc chắn sẽ thắng lợi, điều đó có nghĩa là chúng tôi đã không dự tính những khả năng thay đổi hay diễn biến trên hiện trường”.
Kết quả là một thất bại nặng nề ở mức chiến thuật cho người Cộng sản. Sự trớ trêu bi kịch là thất bại này lại chuyển hóa thành một thắng lợi tâm lý mà sẽ là điểm bước ngoặt cho sự can dự của Mỹ trong cuộc chiến.
BBC:Có những vấn đề nào liên quan sự kiện 1968 mà vẫn còn ám ảnh các nhà nghiên cứu ngày hôm nay?
Một trong những vấn đề gây tranh cãi nhất xoay quanh kết quả của cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Từ lâu người ta cho rằng đây là một thất bại chiến thuật cho phía Cộng sản nhưng được chuyển thành chiến thắng tâm lý ở mức chiến lược do sự tường thuật thiên vị.
Có hai vấn đề ở đây: vai trò của truyền thông và kết quả thực sự của chiến dịch. Ngày nay một số học giả cho rằng truyền thông thực ra không có tác động lớn tới dư luận đến thế. Quả đúng là tác động ban đầu của báo chí đã làm tăng ủng hộ cho chính quyền Johnson và cách điều hành cuộc chiến của tổng thống. Nhưng khi chiến tranh tiếp tục, dư luận xoay chiều theo hướng bi quan. Tác động thực sự của Tết Mậu Thân là tác động lên chính chính quyền Johnson – chính quyền Mỹ bị rúng động vì tầm mức và sự khốc liệt của các cuộc tấn công của Cộng sản. Tình thế này khiến tổng thống và các cố vấn của ông đánh giá lại và sau đó là tuyên bố của Johnson rằng ông sẽ giảm cường độ đánh bom Bắc Việt, và kêu gọi đàm phán ngay trước lúc loan báo ông sẽ không ra tái tranh cử.
Kết quả của chiến dịch vẫn còn đang được tranh cãi. Cuộc tấn công, với các đợt sau đó kéo dài sang mùa thu 1968, có một số kết quả. Nó làm tăng số thương vong của quân Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), nhưng phía Cộng sản cũng không đạt được mục tiêu quân sự nào của họ và người dân miền Nam vẫn không nổi dậy. Cộng quân chịu tổn thất nặng nề, đặc biệt là du kích Việt Cộng, những người chiến đấu chính trong các đô thị; họ không còn hồi phục sau những thiệt hại này và đa số các trận đánh lớn từ cuối 1968 về sau là do quân chính quy Bắc Việt đảm nhiệm. Tuy nhiên, những người Cộng sản đã thành công trong việc tác động tiêu cực đến chương trình bình định nông thôn, khiến các cán bộ bình định địa phương bỏ chạy khỏi vùng quê trong những ngày đầu của cuộc tấn công. Tác động này sau đó giảm đi khi những tổn thất của Việt Cộng cho phép những cán bộ này quay lại và tăng gấp đôi nỗ lực. Người ta thừa nhận chương trình bình định đạt mức độ thành công quan trọng trong những năm sau Tết Mậu Thân.
BBC:Tổng số thương vong trong chiến dịch có còn là câu hỏi chưa được giải quyết trọn vẹn, thưa giáo sư?
Vẫn còn nhiều bất đồng về tổng số thương vong của phía Cộng sản. Một số tư liệu công bố gần đây cung cấp thêm chi tiết, nhưng con số thực vẫn mù mờ. Tuy nhiên, rõ ràng là Cộng quân, và đặc biệt là quân của Mặt trận Giải phóng miền Nam, chịu tổn thất nặng nề vì các đợt tấn công kéo dài tới mùa thu 1968.
Vẫn còn nhiều bất đồng về tổng số thương vong của phía Cộng sản. Một số tư liệu công bố gần đây cung cấp thêm chi tiết, nhưng con số thực vẫn mù mờ


BBC:Cái gọi là Cuộc thảm sát ở Huế vẫn gây nhiều tranh cãi trong người Việt. Theo ông, có thông tin gì mới về vấn đề này không?
Thông tin mới duy nhất mà tôi thấy là cuốn sách tiếng Anh năm 2002, From Enemy to Friend, của Bùi Tín (Nguyễn Ngọc Bích dịch). Trong đó, Bùi Tín nói Tướng Trần Văn Quang, chỉ huy trưởng quân khu Trị - Thiên – Huế, bị phê bình vì để xảy ra vụ thảm sát. Bùi Tín khẳng định là cán bộ Cộng sản được chỉ thị giữ tù binh mà họ bắt trong đợt tấn công đầu tiên vào Huế, rồi đưa họ đi cùng khi Cộng quân rút lui sau khi bị Thủy quân lục chiến Mỹ đẩy ra khỏi Cổ thành. Tác giả cho rằng “nhiều chỉ huy cấp đại đội và tiểu đoàn đã tự ý quyết định bắn các tù binh để đảm bảo cho việc rút lui được an toàn.” Theo ông, người già, phụ nữ và trẻ em đã bị hành quyết khi “kỷ luật đổ vỡ trong tình thế tuyệt vọng.” Liệu đây có phải là sự biện bạch của người Cộng sản sau khi việc đã rồi hay không, thì tôi không rõ.
BBC:Từ phía người Mỹ, đâu là những bài học rút ra từ Tết Mậu Thân 1968?
Một trong những bài học quan trọng nhất là về tình báo. Những ước đoán về binh lực và ý định của Cộng quân vào cuối năm 1967 mắc nhiều thiếu sót. Một phần của vấn đề là Phái bộ Quân sự Mỹ tại Việt Nam (gọi tắt là MACV, Military Assistance Command, Vietnam), trong cố gắng chứng tỏ có tiến bộ, đã cố tình giảm nhẹ các đánh giá tình báo về binh lực của Cộng quân. MACV thay đổi cách tính toán, giảm số lượng quân địch từ gần 300.000 xuống còn 235.000 vào tháng 12-1967. Các phân tích gia tình báo Mỹ dường như tin vào đánh giá của chính họ và gần như bỏ qua bằng chứng là Cộng quân không chỉ duy trì khả năng tác chiến khá cao mà còn định dùng khả năng đó theo một cách quyết liệt. Một thất bại tình báo nữa là khi các phân tích gia tình báo bỏ qua nhiều tài liệu thu giữ được, cho rằng chúng chỉ thể hiện hy vọng hão huyền của Cộng sản mà không thấy rằng đối phương có khả năng thực hiện ý định.
Vì thế, phía Mỹ đã đánh giá thấp khả năng của đối phương, bỏ qua những chứng liệu tình báo mới chỉ vì chúng đi ngược hẳn với suy nghĩ của họ về sức mạnh và khả năng của đối phương.
Một vấn đề khác ảnh hưởng đến thất bại tình báo liên quan tới cái mà ngày nay người ta gọi là “sự hỗ tương” (fusion). Thật khó tổng hợp những dữ liệu thu thập được để vẽ nên bức tranh toàn diện về hành vi của Cộng quân. Một phần nguyên nhân là sự thiếu phối hợp giữa các cơ quan tình báo. Đa số các tổ chức này hoạt động độc lập, ít khi chia sẻ thông tin với nhau. Điều này xảy ra cả ở trong cơ cấu tình báo của quân đội Mỹ.
Nhưng ngay cả khi ta giả sử bộ máy tình báo đã có sự hỗ tương tốt hơn, thì cũng vẫn khó giải quyết những báo cáo trái ngược hẳn nhau. Một mặt tin tức cho thấy một cuộc tổng tiến công sắp xảy ra, nhưng cũng có những báo cáo khác nói rằng đối phương gặp khó khăn và tinh thần binh sĩ sa sút. Khó quyết định ta nên tin vào báo cáo nào. Bên cạnh đó, có một số chỉ dấu lẽ ra phải làm ngành tình báo chú ý thì chúng lại rơi lọt thỏm giữa những biến cố rõ rệt hơn và trùng khớp hơn với trông đợi của các phân tích gia. Trước các bằng chứng là đối phương gia tăng hoạt động gần đô thị và dọc vùng ven nông thôn, quân đồng minh buộc phải quyết định là cuộc tổng tiến công sẽ xảy ra ở đâu, khi nào, như thế nào. Họ đã thất bại trong việc này, khi tập trung cho hoạt động quanh khu vực Khe Sanh và các vùng xa xôi khác.
Khi Bắc quân tấn công vào căn cứ Thủy quân Lục chiến ở Khe Sanh ngày 21-1, điều này trùng khớp với dự tính của Westmoreland và các phân tích gia. Họ đánh giá tin tức tình báo dựa trên điều họ mong đợi, và những chỉ dấu khác thì bị đánh giá thấp. Bài học lớn rút ra là các nhà phân tích và chỉ huy phải tránh quan niệm thiên kiến về đối phương và khả năng của đối phương, đặc biệt khi thông tin tình báo cho thấy thách thức mà ta đối diện khác hẳn với lối suy nghĩ lâu nay.